Bản án về tội trộm cắp tài sản số 168/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 168/2023/HS-ST NGÀY 04/08/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 04 tháng 8 năm 2023, tại Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 184/2023/TLST-HS, ngày 26 tháng 6 năm 2023; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 258/2023/QĐXXST-HS, ngày 21 tháng 7 năm 2023 đối với bị cáo:

Nguyễn Hữu H, sinh năm 1984, tại tỉnh Hưng Yên. Nơi thường trú và cư trú: Ấp 4, xã T H, huyện B L, tỉnh Long An; nghề nghiệp: Không có; trình độ văn hóa: 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không có; quốc tịch: V Nam; con ông Nguyễn Hữu V và bà Nguyễn Thị S; chưa có vợ con; tiền án: Ngày 10/11/2008, bị Tòa án nhân dân tỉnh Long An xử phúc thẩm phạt 03 năm 06 tháng tù về “Tội trộm cắp tài sản” (lần phạm tội này là “Tái phạm nguy hiểm”, đã chấp hành xong hình phạt chính ngày 22/11/2011 và các quyết định khác ngày 11/12/2008, án tích chưa được xóa); ngày 20/6/2012, bị Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An xử phạt 05 năm tù về “Tội trộm cắp tài sản” (lần phạm tội này là “Tái phạm nguy hiểm”, đã chấp hành xong hình phạt chính ngày 21/7/2016 và quyết định khác ngày 15/01/2013, án tích chưa được xóa); ngày 04/7/2017, bị Tòa án nhân dân huyện Mộc Hóa, tỉnh Long An xử phạt 06 năm tù về “Tội trộm cắp tài sản” (lần phạm tội này là “Tái phạm nguy hiểm”, đã chấp hành xong hình phạt chính ngày 26/9/2022, chưa chấp hành các quyết định khác, án tích chưa được xóa); tiền sự: Không có; nhân thân: Ngày 09/8/2004, bị Tòa án nhân dân huyện Bến Lức, tỉnh Long An xử phạt 09 tháng tù về “Tội trộm cắp tài sản” (đã chấp hành xong hình phạt chính ngày 04/02/2005 và quyết định khác ngày 14/9/2004 và do tài sản đã chiếm đoạt trị giá 900.000 đồng nên đương nhiên được xóa án tích); ngày 10/01/2007, bị Tòa án nhân dân huyện Bến Lức, tỉnh Long An xử phạt 09 tháng tù về “Tội trộm cắp tài sản” (đã chấp hành xong hình phạt chính ngày 04/6/2007 và quyết định khác ngày 17/7/2009 và do tài sản đã chiếm đoạt trị giá 460.000 đồng nên đương nhiên được xóa án tích); bị tạm giữ ngày 30-12-2022 (theo Biên bản tiếp nhận người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang do Công an phường Bình Trị Đông B, quận Bình Tân Lập lúc 11 giờ ngày 30-12-2022), tạm giam ngày 09-01-2023 “có mặt”.

*Bị hại: Chị Quách T N, sinh năm 2000. Nơi thường trú và cư trú hiện nay: Nhà số D, Tổ 1, Ấp 4, xã L M X, huyện B C, Thành phố Hồ Chí Minh “vắng mặt”.

*Các người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Nguyễn Hữu V, sinh năm 1956. Nơi thường trú và cư trú hiện nay:

Ấp 4, xã T H, huyện B L, tỉnh Long An “có mặt”;

2. Bà Nguyễn Thị T T2, sinh năm 1982. Nơi thường trú và cư trú hiện nay: Nhà số D, Tổ 1, Ấp 4, xã L M X, huyện B C, Thành phố Hồ Chí Minh “vắng mặt”;

3. Công ty Trách nhiệm hữu hạn Xây dựng và Xuất nhập khẩu Trường Sơn T3; địa chỉ: Số 249, đường N V L, Phường X, quận G V, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Người đại diện theo pháp luật của Công ty: Ông Bùi Anh T4-Giám đốc.

- Người đại theo ủy quyền của Công ty: Anh Nguyễn Trung T5, sinh năm 1975. Nơi thường trú: Ấp 8, xã H H, huyện T B, tỉnh Vĩnh Long; nơi cư trú hiện nay: Nhà số V, đường Q L 1A, Khu phố 1, phường T T A, quận B T, Thành phố Hồ Chí Minh “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ 10 phút ngày 30/12/2022, Nguyễn Hữu H điều khiển xe môtô hiệu Honda, loại Air Blade, màu đen đỏ, biển số 62N1-xxxxx đến Siêu thị Big C An Lạc, số 1231, đường Quốc Lộ 1A, phường Bình Trị Đông B, quận Bình Tân gửi xe tại bãi giữ xe chính rồi đi vào Siêu thị mua thức ăn, nhưng do Siêu thị chưa mở cửa nên quay lại để lấy xe đi về thì gặp nhân viên giữ xe là chị Thạch Thị Xưa cho biết theo quy định 08 giờ mới được lấy xe ra nên H ngồi trong bãi giữ xe chờ đến giờ lấy xe. Trong thời gian này, H nhìn thấy chị Quách T N chạy chiếc xe môtô hiệu Air Blade, màu đen, biển số 59N2-xxxxx vào gửi trong bãi giữ xe; nhưng khi đi ra, chị N vẫn còn để chìa khóa xe cắm trong ổ khóa xe. Khi đó, H nghĩ nếu có Thẻ giữ xe sẽ lấy được xe để bán kiếm tiền tiêu xài nên đến chỗ chiếc xe của chị N và dùng chìa khóa xe có sẵn mở cốp xe ra để tìm Thẻ gửi xe thì thấy có: 01 áo mưa màu xanh, 03 mắt kính và 01 túi đeo màu đen hiệu Chanel, bên trong gồm có: 01 áo khoác màu xám; 01 Thẻ gửi xe F.S.B Security Guard, No.180422.0009 của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Xây dựng và Xuất nhập khẩu S; 01 Thẻ bảo hiểm y tế cùng với 01 Thẻ Ngân hàng Techcombank đều mang tên Quách T N và 01 Giấy đăng ký xe môtô biển số 59N2-xxxxx mang tên Nguyễn Thị T T2; đồng thời, trên xe chị N còn có treo 01 mũ bảo hiểm hiệu Adidas, màu đen. Lúc này, H lấy cái túi đeo màu đen của chị N cất giấu vào trong cốp xe của H, còn Thẻ gửi xe lấy ra cầm trên tay rồi điều khiển xe của chị N chạy ra cửa bãi giữ xe đưa Thẻ gửi xe cho chị Xưa để được lấy xe ra chạy tẩu thoát chiếm đoạt. Tuy nhiên, do chị Xưa nhận Thẻ quét lên máy nhận dạng thì phát hiện lúc người đưa chiếc xe này vào gửi là nữ nên không cho H lấy xe ra và yêu cầu đậu xe tránh sang 01 bên cho thoáng lối đi. Lúc này, do H nói là xe của vợ H nên chị X yêu cầu H gọi điện thoại kêu vợ ra đây xác nhận và đồng thời gọi điện thoại cho anh Nguyễn Trung T5-Đội trưởng bảo vệ Siêu thị thông báo sự việc. Ngay sau đó, anh T cùng với anh Lê Công C đi ra thì nhìn thấy H bỏ chạy bộ ra khỏi bãi giữ xe hướng ra đường Quốc Lộ 1A nên các anh chạy đuổi theo và tri hô “nó kìa, nó kìa”; khi H chạy đến trước nhà số 1088, đường Quốc Lộ 1A, phường Tân Tạo A, quận Bình Tân thì bị các anh T5 và C bắt giữ giao cho Công an phường Bình Trị Đông B xử lý người có hành vi phạm tội quả tang. Sau khi tiếp nhận và lập hồ sơ ban đầu, Công an phường Bình Trị Đông B đã chuyển cho Cơ quan điều tra giải quyết theo thẩm quyền. Tại đây, H đã khai nhận toàn bộ hành vi như vừa mới nêu và tổng trị giá tài sản mà H đã chiếm đoạt của chị N là 22.330.000 đồng.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Hữu H khai: Tuy lúc bị cáo điều khiển xe môtô hiệu Honda, loại Air Blade, màu đen đỏ, biển số 62N1-xxxxx đến bãi giữ xe của Siêu thị Big C An Lạc thì, tuy có nghe chị Thạch Thị X giữ xe nói Siêu thị chưa mở cửa, nhưng bị cáo vẫn đưa xe vào bãi gửi để đi vào Siêu thị mua thức ăn; đến khi bị cáo đi vào gặp anh bảo vệ nói Siêu thị chưa mở cửa thì bị cáo mới chịu quay lại lấy xe đi về. Tại đây, chị Xưa cho biết theo quy định 08 giờ mới mở cửa cho lấy xe ra nên bị cáo ngồi trong bãi giữ xe chờ đến giờ lấy xe. Trong lúc này, bị cáo nhìn thấy chị Quách T N chạy chiếc xe môtô hiệu Air Blade, màu đen, biển số 59N2-xxxxx vào gửi trong bãi giữ xe; nhưng khi đi ra, chị N vẫn còn để chìa khóa xe cắm trong ổ khóa nên nghĩ, nếu có Thẻ giữ xe sẽ lấy được xe để bán kiếm tiền tiêu xài. Sau đó, bị cáo đến chỗ chiếc xe của chị N và dùng chìa khóa xe có sẵn mở cốp xe ra để tìm Thẻ giữ xe thì phát hiện gồm: 01 cái áo mưa màu xanh, 03 cái mắt kính và 01 cái túi đeo hiệu Chanel, màu đen bên trong có: 01 Thẻ giữ xe F.S.B Security Guard, No.180422.0009 của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Xây dựng và Xuất nhập khẩu S; 01 cái áo khoác màu xám, 01 Thẻ bảo hiểm y tế cùng với 01 Thẻ Ngân hàng Techcombank đều mang tên Quách T N và 01 Giấy đăng ký xe môtô biển số 59N2-xxxxx mang tên Nguyễn Thị T T2; riêng 01 mũ bảo hiểm hiệu Adidas, màu đen thì treo trên xe. Lúc này, bị cáo lấy cái túi đeo của chị N cất giấu vào trong cốp xe của bị cáo, còn Thẻ gửi xe lấy ra cầm trên tay rồi điều khiển xe của chị N chạy ra cửa bãi giữ xe đưa Thẻ giữ xe cho chị X. Khi chị X nhận Thẻ quét lên máy nhận dạng thì nói cho bị cáo biết người đưa chiếc xe vào gửi là phụ nữ chứ không phải bị cáo nên không cho bị cáo lấy xe ra. Lúc này, do muốn lấy cho được chiếc xe của chị N nên bị cáo nói là xe của vợ bị cáo, nhưng chị X vẫn không cho lấy xe mà yêu cầu bị cáo gọi điện thoại kêu vợ ra đây xác nhận thì mới cho lấy xe. Khi chị X vừa dứt lời thì bị cáo nhìn thấy có 02 anh bảo vệ Siêu thị đi ra, bị cáo liền bỏ xe lại chạy bộ ra khỏi bãi giữ xe để tẩu thoát, nhưng sau đó đã bị bắt giữ giao cho Công an giải quyết nên nay bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội đúng như nội dung Cáo trạng đã truy tố. Đồng thời, không có ý kiến gì về kết luận định giá tài sản của chị N và trách nhiệm dân sự; riêng về số tài sản của bị cáo còn bị tạm giữ, bị cáo chỉ yêu cầu xem xét trả lại chiếc xe môtô hiệu Honda Air Blade, biển số 62N1-xxxxx cho cha của bị cáo là ông Nguyễn Hữu V.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Hữu V khai: Chiếc xe môtô hiệu Honda Air Blade, biển số 62N1-xxxxx là do ông mua tại Cửa hàng xe gắn máy Bến Lức 1 với giá 28.000.000 đồng và mới chỉ trả góp được 15.000.000 đồng nên Cửa hàng chưa giao giấy đăng ký xe cho ông. Sau đó, ông cho bị cáo mượn xe đi công việc và hoàn toàn không biết bị cáo sử dụng làm phương tiện chạy đến nơi thực hiện hành vi phạm tội nên yêu cầu Hội đồng xét xử xem xét trả lại chiếc xe này cho ông.

Tại Cáo trạng số: 183/CT-VKS, ngày 23 tháng 6 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Hữu H ra trước Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh để xét xử về “Tội trộm cắp tài sản”, theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận có ý kiến: Bị cáo Nguyễn Hữu H đã có hành vi lén lút chiếm đoạt trái phép tài sản của chị Quách T N, tội phạm chưa đạt thì bị bắt giữ và tài sản đó có tổng trị giá 22.330.000 đồng và đồng thời, bị cáo đã “Tái phạm nguy hiểm”, chưa được xóa án tích mà nay lại thực hiện hành vi phạm tội mới do cố ý nên lần phạm tội này bị cáo cũng phải chịu tình tiết định khung hình phạt là “Tái phạm nguy hiểm”. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội nên cần xử bị cáo với mức án thật nghiêm. Tuy nhiên, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nghĩ nên xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu. Do đó, giữ nguyên quyết định đã truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 15; khoản 3 Điều 57; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo với mức án từ 04 năm 06 tháng đến 05 năm tù về “Tội trộm cắp tài sản”. Về trách nhiệm dân sự, do bị hại chỉ yêu cầu giao trả một phần tài sản còn bị tạm giữ và không yêu cầu gì nên không có ý kiến; còn về vật chứng, đề nghị giao trả lại gồm: Cho chị Quách T N 01 áo mưa màu xanh, 01 áo khoác màu xám, 03 cái mắt kính, 01 cái mũ bảo hiểm hiệu Adidas, 01 túi đeo hiệu Chanel, 01 Thẻ bảo hiểm y tế và 01 Thẻ Ngân hàng Techcombank; cho chị Nguyễn Thị T T2 01 Giấy đăng ký xe môtô biển số 59N2-xxxxx và 01 chìa khóa xe; cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn Xây dựng và Xuất nhập khẩu S 01 Thẻ giữ xe; cho ông Nguyễn Hữu V 01 chiếc xe môtô hiệu Honda Air Blade, biển số 62N1-xxxxx.

Tịch thu tiêu hủy gồm: 01 áo khoác màu đen, 01 quần Jean màu xanh và 01 mũ bảo hiểm màu trắng.

Bị cáo không tranh luận và bào chữa gì về hành vi đã bị truy tố; còn lời nói sau cùng thì xin giảm nhẹ mức hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra-Công an quận Bình Tân, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét qua các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của bị cáo Nguyễn Hữu H tại phiên tòa hôm nay cho thấy: Theo chuỗi hành vi, bị cáo không dùng thủ đoạn gian dối hay lén lút gì đối với người trông coi, quản lý bãi giữ xe ngay từ đầu; còn về ý thức chủ quan của bị cáo cũng như thực tế khách quan, chỉ khi có Thẻ gửi xe đưa cho bên nhận giữ xe thì mới được lấy xe ra chiếm đoạt và khi đó, bị cáo vừa thấy chị N rời khỏi bãi giữ xe thì bị cáo liền mở cốp xe của chị N ra tìm Thẻ gửi xe để thực hiện điều này. Như vậy, đã có cơ sở xác định vào khoảng 08 giờ 30 phút ngày 30/12/2022, bị cáo đã có hành vi lén lút chiếm đoạt trái phép tài sản gồm: 01 chiếc xe môtô hiệu Air Blade, màu đen, biển số 59N2-xxxxx; 01 áo mưa màu xanh, 03 mắt kính, 01 túi đeo hiệu Chanel, màu đen; 01 Thẻ giữ xe F.S.B Security Guard, No.180422.0009; 01 áo khoác màu xám; 01 Thẻ bảo hiểm y tế, 01 Thẻ Ngân hàng Techcombank đều mang tên Quách T N; 01 Giấy đăng ký xe môtô biển số 59N2-xxxxx mang tên Nguyễn Thị T T và 01 mũ bảo hiểm hiệu Adidas, màu đen của chị Quách T N để tại bãi giữ xe chính-Siêu thị Big C An Lạc, số 1231, đường Quốc Lộ 1A, phường Bình Trị Đông B, quận Bình Tân. Nhưng tài sản vẫn còn trong phạm vi bãi giữ xe thì bị phát hiện ngăn chặn. Theo các Kết luận định giá tài sản số: 10/KL-HĐĐGTS, ngày 05/01/2023 và số: 160/KL-HĐĐG TS, ngày 22/5/2023 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự quận Bình Tân thì, tổng tài sản của chị N trị giá 22.330.000 đồng; bên cạnh đó, bị cáo còn đã “Tái phạm nguy hiểm”, chưa được xóa án tích mà nay lại thực hiện hành vi phạm tội mới do cố ý nên lần phạm tội này cũng phải chịu tình tiết định khung hình phạt là “Tái phạm nguy hiểm”. Do đó, bị cáo Nguyễn Hữu H đã phạm “Tội trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015. Tuy nhiên, việc bị cáo cố ý chiếm đoạt tài sản của chị N nhưng không thực hiện được đến cùng bởi do bị phát hiện là nằm ngoài ý muốn của bị cáo nên hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp “Phạm tội chưa đạt”, theo quy định tại Điều 15 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[3] Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với lời khai trước đây tại Cơ quan điều tra; lời khai bị hại, người liên quan và biết việc; hình ảnh trích xuất từ camera; biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản, bản ảnh dựng lại hiện trường, thực nghiệm điều tra; vật chứng thu giữ được, các kết luận định giá tài sản…nên đã đủ chứng cứ buộc tội bị cáo và mức án đề nghị của Kiểm sát viên vừa nêu trên là có cơ sở chấp nhận.

[4] Xét bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở của người khác, thực hiện hành vi chiếm đoạt trái phép tài sản là trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Hành vi phạm tội của bị cáo đã gây mất trật tự trị an tại địa phương, bị cáo nhận thức được việc làm của mình là sai, vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện nhằm mục đích có tiền để thỏa mãn nhu cầu tiêu xài cá nhân; đồng thời, bị cáo còn đã nhiều lần bị kết án cùng loại tội phạm mà nay vẫn tiếp tục thực hiện hành vi này nên cần phải xử bị cáo với mức án nghiêm khắc thì mới có đủ sức giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần được xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì, “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”; do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy, bị cáo không có nghề nghiệp và điều kiện kinh tế nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Xét tại phiên tòa hôm nay, tuy bị hại chị Quách T N đã được triệu tập hợp lệ mà vẫn vắng mặt, nhưng theo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ thì: Chị N chỉ yêu cần được giao trả lại phần tài sản còn bị tạm giữ và không có yêu cầu gì thêm nên cần được xem xét giải quyết tại phần vật chứng.

[7] Về vật chứng: Đối với chiếc xe môtô hiệu Air Blade, màu đen, biển số 59N2-xxxxx, do bà Nguyễn Thị T T đứng tên sở hữu và đã cho con ruột là chị N mượn sử dụng, bị chiếm đoạt thì: Cơ quan điều tra đã thu hồi giao trả lại cho chị T nên không xét. Riêng 01 áo mưa màu xanh-đã qua sử dụng, 01 áo khoác màu xám-đã qua sử dụng, 01 mắt kính màu đen-đã qua sử dụng, 01 mắt kính màu đen có chữ GENTLE MONTER-đã qua sử dụng, 01 mắt kính màu đen có chữ GUCCI-đã qua sử dụng, 01 túi màu đen có chữ Chanel-đã qua sử dụng, 01 mũ bảo hiểm màu đen-có chữ Adidas (đã qua sử dụng), 01 Thẻ bảo hiểm y tế số DN479793739xxxx-Q và 01 Thẻ Ngân hàng Techcombank tên Q là của bị hại chị N, bị chiếm đoạt nên cần giao trả lại cho chị N. Còn 01 Giấy đăng ký xe môtô biển số 59N2-xxxxx và 01 chìa khóa xe màu đen có dây đeo màu đen và một hình con chó màu đen là của bà Nguyễn Thị T T cho chị N mượn theo xe, bị chiếm đoạt nên cần giao trả lại cho bà T. Đối với 01 Thẻ giữ xe F.S.B Security Guard No.1804220009 là của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Xây dựng và Xuất nhập khẩu S phát hành để giao cho người gửi xe bị chiếm đoạt nên cần giao trả lại Công ty. Đối với 01 chiếc xe môtô hiệu Honda AirBlade màu đen, BS 62N1-xxxxx đã qua sử dụng-Nguyễn Hữu H mà bị cáo dử dụng và còn đang bị tạm giữ là của anh Đặng Văn T đứng tên chủ sở hữu và đã cầm cố tại Cửa hàng cầm đồ Trường K do Nguyễn Duy K làm chủ, nhưng không có tiền chuộc xe nên anh T đã làm hợp đồng ủy quyền toàn quyền định đoạt có công chứng cho anh K; sau đó, anh K đã bán xe lại cho Cửa hàng xe gắn máy Bến Lức 1 do anh Từ Bạch Q làm chủ; sau khi mua xe, anh Q bán xe lại với hình thức trả góp cho ông Nguyễn Hữu V (cha ruột của bị cáo) giá 28.000.000 đồng, nhưng do ông V mới trả được 15.000.000 đồng nên Cửa hàng chưa giao Giấy đăng ký xe cho ông V; sau đó, ông V giao xe cho bị cáo sử dụng làm phương tiện đi lại và hoàn toàn không biết bị cáo sử dụng chạy đến nơi thực hiện hành vi phạm tội là không có lỗi nên cần trả xe lại cho ông V. Đối với 01 áo khoác màu đen hiệu New York-đã qua sử dụng, 01 quần Jean màu xanh-đã qua sử dụng và 01 mũ bảo hiểm màu trắng cam có ghi chữ D P-đã qua sử dụng thì tuy là của bị cáo, nhưng do bị cáo không yêu cầu nhận lại nên cần tịch thu để tiêu hủy.

[8] Bị cáo Nguyễn Hữu H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về căn cứ điều luật và xử phạt:

- Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 15;

khoản 3 Điều 57 Bộ luật Hình sự năm 2015.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu H 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù về “Tội trộm cắp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày 30-12-2022.

2. Về vật chứng: Căn cứ vào Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.

- Giao trả lại cho chị Quách T N gồm: 01 áo mưa màu xanh-đã qua sử dụng, 01 áo khoác màu xám-đã qua sử dụng, 01 mắt kính màu đen-đã qua sử dụng, 01 mắt kính màu đen có chữ GENTLE MONTER-đã qua sử dụng, 01 mắt kính màu đen có chữ GUCCI-đã qua sử dụng, 01 túi màu đen có chữ Chanel-đã qua sử dụng, 01 mũ bảo hiểm màu đen-có chữ Adidas (đã qua sử dụng), 01 Thẻ bảo hiểm y tế số DN479793739xxxx-Q và 01 Thẻ Ngân hàng Techcombank tên Q.

- Giao trả lại cho bà Nguyễn Thị T T 01 Giấy đăng ký xe môtô biển số 59N2-xxxxx và 01 chìa khóa xe màu đen có dây đeo màu đen và một hình con chó màu đen.

- Giao trả lại cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn Xây dựng và Xuất nhập khẩu S 01 Thẻ giữ xe F.S.B Security Guard No.1804220009.

- Giao trả lại cho ông Nguyễn Hữu V 01 chiếc xe môtô hiệu Honda AirBlade màu đen, BS 62N1-xxxxx đã qua sử dụng-Nguyễn Hữu H.

- Tịch thu tiêu hủy gồm: 01 áo khoác màu đen hiệu New York-đã qua sử dụng, 01 quần Jean màu xanh-đã qua sử dụng và 01 mũ bảo hiểm màu trắng cam có ghi chữ D P-đã qua sử dụng.

(Vật chứng trên hiện do Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Tân đang tạm giữ theo Phiếu nhập kho số: NK23/199TAM, ngày 10/7/2023)

3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Nguyễn Hữu H phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào các điều 331 và 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.

Bị cáo Nguyễn Hữu H; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Hữu V có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại chị Quách T N; các người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị T T cùng Công ty Trách nhiệm hữu hạn Xây dựng và Xuất nhập khẩu S (có anh Nguyễn Trung T làm đại theo ủy quyền) vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được giao bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

37
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 168/2023/HS-ST

Số hiệu:168/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bình Tân - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về