Bản án về tội trộm cắp tài sản số 162/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 162 /2020/HS-ST NGÀY 01/12/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 01 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 164/2020/TLST-HS ngày 18 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 171/2020/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Trần Thị N, sinh ngày 01 tháng 07 năm 1965, tại tỉnh Thái Bình; Nơi cư trú: Thôn Tiên Sơn, xã Vũ Chính, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình; giới tính: Nữ; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: lớp 07/10; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông: Trần Đình Vàng (đã chết); con bà: Nguyễn Thị B (đã chết); chồng: Nguyễn Thế D, sinh năm 1955; có 2 con, con lớn sinh năm 1989, con nhỏ sinh năm 1994; Bị cáo không có tiền án, tiền sự; Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 28/10/2020. Có mặt tại phiên tòa.

*Người bị hại:

Bà Nguyễn Thị Q, sinh năm 1954; Địa chỉ: thôn N1, xã V, thành phố T, tỉnh Thái Bình; có mặt.

- Người được ủy quyền: Anh Nguyễn Đình N, sinh năm 1973; Địa chỉ: Thôn A, xã T, huyện V, tỉnh Thái Bình; có mặt.

* Người làm chứng:

1- Anh Nguyễn Đình N, sinh năm 1973; Địa chỉ: Thôn A, xã T, huyện V, tỉnh Thái Bình; có mặt.

2- Chị Phùng Thị Bích, sinh năm 1984; Địa chỉ: Thôn N1, xã V, thành phố T, tỉnh Thái Bình; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm t t như sau:

Trần Thị N làm giúp việc tại cửa hàng bán gạo của bà Nguyễn Thị Q từ tháng 5/2019, công việc là xát gạo, cân gạo bán cho khách và dọn dẹp cửa hàng nhưng không được thu tiền của khách. Khoảng 09 giờ 38 phút ngày 24/10/2020 khi đang làm việc tại cửa hàng N lấy hòm tôn đựng tiền của bà Quý không khóa, lợi dụng bà Quý đi ra bên ngoài cửa hàng, N lén lút cầm 01 chiếc mẹt đi lại vị trí hòm tôn để mẹt lên trên mặt hòm tôn, quan sát thấy không có ai N mở n p hòm tôn rồi dùng tay trái lấy số tiền 1.537.000 đồng bỏ vào mẹt, tay trái N cầm mẹt, tay phải lấy 01 vỏ bao bì dùng để đựng gạo che lại rồi đi vào kho thóc bên cạnh giấu tiền vào cạp quần. Sau đó N đi ra ngoài cửa thấy bà Quý vẫn đứng bên ngoài cửa không để ý N lại tiếp tục đi vào vị trí hòm tôn mở n p hòm tôn dùng tay trái lấy 01 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng. Khi N đang cầm tờ tiền 500.000 đồng trên tay trái thì bị anh Nguyễn Đình N là con rể bà Quý ngồi trên tầng 2 của cửa hàng bán gạo xem camera phát hiện chạy xuống b t quả tang. Anh Nghi đã báo cáo Công an xã Vũ Chính, thành phố Thái Bình khi lực lượng Công an đến N đã giao nộp số tiền vừa trộm  cắp số tiền là 2.037.000 đồng. Ngoài ra N còn giao nộp 01 túi vải màu đen có khóa, bên trong có số tiền 3.160.000 đồng. Lực lượng Công an đã lập biên bản b t người phạm tội quả tang và đưa N về trụ sở để làm việc.

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Thị N khai nhận thực hiện hành vi trộm  cắp số tiền 2.037.000 đồng của bà Nguyễn Thị Q như nội dung đã nêu ở trên.

Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn số 01/QĐ-VKSNDTPTB ngày 17 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình truy tố bị cáo Trần Thị N về tội Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

* Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Thị N phạm tội Trộm cắp tài sản”;

* Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b,h,i,s khoản 1,Điều 51;

Điều 50; Điều 36 Bộ luật hình sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Trần Thị N mức án từ 09 tháng đến 12 tháng cải tạo không giam giữ.

Bị cáo Trần Thị N bị mất việc làm không có thu nhập nên miễn khấu trừ thu nhập, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

* Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị trả lại cho bà Nguyễn Thị Q, sinh năm 1954; Địa chỉ: thôn N1, xã V, thành phố T, tỉnh Thái Bình số tiền 460.000 đồng (đang quản lý tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Bình).

* Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Chấp nhận việc cơ quan điều tra trả lại cho bà Nguyễn Thị Q số tiền 2.037.0000 và bị cáo Trần Thị N số tiền 3.160.000 đồng.

- Tiếp tục quản lý 01 USB theo hồ sơ vụ án.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận đối với luận tội của Kiểm sát viên.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo yên tâm cải tạo thành công dân có ích cho xã hội.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Bình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan điều tra: Số tiền 2.037.000 đồng là tiền vừa lấy trộm trong hòm tôn của bà Quý, số tiền 3.160.000 đồng cất trong túi vải màu đen là của anh Nguyễn Thế Thành (con của bị cáo N) cho để mua đồ chuẩn bị đám cưới em trai anh Thành. Ngoài ra bị cáo N còn khai nhận vào ngày 16/10/2020 N đã trộm  cắp số tiền 460.000 đồng trong hòm tôn của bà Quý, số tiền này bị cáo N đã chi tiêu hết. Vì vậy, bị cáo Trần Thị N đã phạm vào tội Trộm  cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự như Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

...”.

[3] Về tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi trộm  cắp tài sản mà bị cáo N thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, bị cáo đã lợi dụng lúc bị hại sơ hở trong việc quản lý, giám sát lỏng lẻo tài sản, bị cáo đã lén lút chiếm đoạt tài sản. Vì vậy phải xử phạt bị cáo một mức án phù hợp với hậu quả của hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Trần Thị N đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; phạm tội gây hậu quả không lớn; bị cáo đã kh c phục thiệt hại, nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm h,b,i,s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

[5] Trên cơ sở đánh giá tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử thấy bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có khả năng tự cải tạo và việc áp dụng cho bị cáo hưởng mức án cải tạo không giam giữ không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, đồng thời giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước. Ngoài ra bị cáo bị mất việc làm, không có thu nhập nên không áp dụng khấu trừ thu nhập, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Ngày 30 tháng 10 năm 2020 cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Bình ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho bà Nguyễn Thị Q, sinh năm 1954; Đăng ký hộ khẩu thường trú: thôn N1, xã V, thành phố T, tỉnh Thái Bình số tiền 2.037.000 đồng. Bà Quý nhận lại toàn bộ tài sản trên và không có ý kiến gì. Đối với số tiền 460.000 đồng bị cáo đã nộp lại để kh c phục thiệt hại xét thấy đây là tài sản của bị hại nên trả lại cho bị hại.

[7] Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Chấp nhận cơ quan điều tra đã trả lại cho bị hại Nguyễn Thị Q số tiền 2.037.000 đồng, bị cáo Trần Thị N số tiền 3.160.000 đồng. Tiếp tục quản lý 01 USB theo hồ sơ vụ án.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm b, h, i,s khoản 1 Điều 51; Điều 36; Điều 50, 47 Bộ luật hình sự; Điều 106, khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Căn cứ vào Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Trần Thị N phạm tội Trộm  cắp tài sản”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Trần Thị N 09 tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày UBND xã Vũ Chính, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Giao bị cáo cho UBND xã Vũ Chính, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình giám sát, giáo dục.

Miễn khấu trừ thu nhập và không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Trần Thị N.

3. Về trách nhiệm dân sự: Trả lại bị hại Nguyễn Thị Q số tiền 460.000 đồng đang quản lý tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Bình.

4. Về vật chứng: Chấp nhận việc cơ quan điều tra trả lại cho bà Nguyễn Thị Q số tiền 2.037.000 đồng và bị cáo Trần Thị N số tiền 3.160.000 đồng. Tiếp tục quản lý 01 USB theo hồ sơ vụ án.

5.Về án phí: Bị cáo Trần Thị N phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (01/12/2020).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

241
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 162/2020/HS-ST

Số hiệu:162/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về