Bản án về tội trộm cắp tài sản số 16/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HẢI LĂNG, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 16/2023/HS-ST NGÀY 31/07/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 31 tháng 7 năm 2023, tại Tòa án nhân dân huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 23/2023/TLST-HS ngày 07/7/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2023/QĐXXST-HS ngày 17/7/2023 đối với bị cáo:

Võ Văn T, sinh ngày 04/11/1999 tại tỉnh Quảng Trị; nơi cư trú: Thôn T, xã H, huyện H, tỉnh Quảng Trị; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ P và bà Nguyễn Thị M; tiền án: Ngày 15/9/2021, bị TAND thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị tuyên phạt 17 tháng tù tại Bản án số 95/2021/HS-ST về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; đã chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 03/8/2022. Tiền sự: Ngày 22/02/2023, Võ Văn T đã bị Chủ tịch UBND xã H, huyện H xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản”, mức phạt 2.500.000 đồng. Bị cáo bị tạm giam từ ngày 12/4/2023 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

Bị hại:

- Ông Võ P, sinh năm 1976; nơi cư trú: Thôn T, xã H, huyện H, tỉnh Quảng Trị; vắng mặt.

- Ông Nguyễn Văn T1, sinh năm 1973; nơi cư trú: Thôn C, xã H, huyện H, tỉnh Quảng Trị; vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1972, nơi cư trú: Thôn T, xã H, huyện H, tỉnh Quảng Trị; có mặt.

- Bà Hồ Thị L, sinh năm 1977; nơi cư trú: Thôn C, xã H, huyện H, tỉnh Quảng Trị; vắng mặt.

Người làm chứng: Anh Hoàng Tấn H, sinh năm 1984; nơi cư trú: Thôn T, xã H, huyện H, tỉnh Quảng Trị; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 30 phút, ngày 28/02/2023, Võ Văn T đến nhà anh Nguyễn Văn T1 tại thôn C, xã H, huyện H tỉnh Quảng Trị để mượn điện thoại di động của anh T1 gọi nhờ điện thoại. Sau khi gọi điện thoại thì anh T1 xuống dưới nhà, lúc này Võ Văn T quan sát thấy có 01 ví da màu vàng để trên tủ gỗ, nên nảy sinh ý định lấy trộm tài sản. Võ Văn T mở ví lấy số tiền 1.050.000 đồng, sau đó đặt ví lại chỗ cũ rồi đi về nhà. Khoảng 20 giờ cùng ngày, Võ Văn T thấy trong sân nhà anh Hoàng Tấn H ở thôn T, xã H, huyện H, tỉnh Quảng Trị (ở sát bên cạnh nhà mình) có xe mô tô biển kiểm soát 74F7-X của ông Võ P (là bố của mình) gửi tại đây.

Quan sát, thấy xe được dựng trong sân nhà anh H, bánh xe phía sau được khóa bởi 01 ổ khóa và 01 đoạn kim loại uốn cong để làm vòng khóa bánh xe phía sau của xe. Do có ý định lấy trộm xe mô tô từ trước nên T đã lấy giấy đăng ký xe mô tô trên và chìa khóa của ổ khóa bánh xe vào ngày 25/02/2023. Võ Văn T mở ổ khóa ở bánh xe phía sau rồi điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 74F7-X đến nhà nghỉ H1 tại Phường A, thị xã Q, tỉnh Quảng Trị để ngủ qua đêm.

Ngày 01/3/2023, Võ Văn T đem xe mô tô biển kiểm soát 74F7-X đón xe khách vào Đà Nẵng tìm nơi bán xe nhưng không được. Đến chiều cùng ngày, Võ Văn T bị Công an quận L, Thành phố Đà Nẵng dừng đón, kiểm tra, do không xuất trình được giấy tờ nên T được mời về công an phường H để làm việc. Đến khoảng 22 giờ ngày 01/3/2023, bố mẹ T đến nộp phạt cho T rồi đưa T về nhà tại thôn T, xã H, huyện H, tỉnh Quảng Trị.

Vào ngày 02/3/2023, Công an xã H mời Võ Văn T đến làm việc và tạm giữ xe mô tô biển kiểm soát 74F7-X cùng giấy đăng ký xe. Tại Công an xã H, Võ Văn T đã khai báo toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản của mình.

Bản kết luận định giá tài sản số 22/KL-HĐĐGTS ngày 22/3/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện H, tỉnh Quảng Trị, kết luận: Giá trị xe mô tô nhãn hiệu DENRIM, màu xanh, BKS 74F7-X tại thời điểm ngày 28/02/2023 là 1.320.000 đồng. Như vậy, tổng giá trị tài sản mà Võ Văn T chiếm đoạt của các bị hại là 2.370.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 08/CT-VKSHL ngày 06/7/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hải Lăng đã truy tố bị cáo Võ Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã nêu.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 15 đến 18 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 12/4/2023. Về trách nhiệm dân sự: Các bên đã bồi thường xong, không còn yêu cầu gì nên không xem xét. Về xử lý vậy chứng: Các vật chứng thu giữ trong quá trình điều tra đã được trả lại cho chủ sở hữu là có căn cứ, đúng pháp luật nên không xem xét. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận với luận tội của kiểm sát viên. Bị cáo nói lời sau cùng: Xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Vào ngày 28/02/2023, lợi dụng sơ hở trong quản lý tài sản của chủ sở hữu, Võ Văn T có hành vi lén lút chiếm đoạt số tiền 1.050.000 đồng của anh Nguyễn Văn T1 và xe mô tô biển kiểm soát 74F7- X của ông Võ P trị giá 1.320.000 đồng. Tổng giá trị tài sản bị Võ Văn T chiếm đoạt là 2.370.000đ. Đủ cơ sở để kết luận bị cáo Nguyễn Văn T2 đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, làm mất trật tự an toàn tại địa phương, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân, nên cần phải xử lý nghiêm minh trước pháp luật để trừng trị, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

Về tình tiết tăng nặng: Ngày 15/9/2021, bị cáo bị Toà án nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị tuyên phạt 17 tháng tù tại Bản án số 95/2021/HS-ST về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 03/8/2022 nhưng trong thời gian chưa được xoá án tích, bị cáo lại tiếp tục phạm tội “Trộm cắp tài sản”, hành vi phạm tội lần này của bị cáo đã thuộc trường hợp “tái phạm”, theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo có nhân thân xấu, có 01 tiền sự: Ngày 22/02/2023, đã bị Chủ tịch UBND xã H, huyện H xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản”, mức phạt 2.500.000 đồng.

Về tình tiết giảm nhẹ, cần xem xét cho bị cáo trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo. Bị cáo đã tác động đến gia đình để bồi thường cho bị hại Nguyễn Văn T1. Các bị hại đã xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Vì vậy, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Hội đồng xét xử xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo bị cáo thành người có ích cho xã hội, đồng thời đảm bảo răn đe, phòng ngừa tội phạm. Bị cáo đang bị tạm giam, cần tiếp tục tạm giam để đảm bảo việc thi hành án.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo và gia đình đã thoả thuận, bồi thường xong cho bị hại. Các bên không còn yêu cầu gì nên không xem xét.

[5] Về vật chứng: Các vật chứng thu giữ trong quá trình điều tra đã được trả lại cho chủ sở hữu nên không xem xét.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự:

1. Tuyên bố bị cáo Võ Văn T phạm tội "Trộm cắp tài sản".

2. Xử phạt bị cáo Võ Văn T 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 12/4/2023.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016: Bị cáo Võ Văn T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

31
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 16/2023/HS-ST

Số hiệu:16/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hải Lăng - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về