Bản án về tội trộm cắp tài sản số 16/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẨM XUYÊN, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 16/2023/HS-ST NGÀY 06/04/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 4 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân Huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 16/2023/HSST ngày 20/3/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2023/QĐXXST-HS ngày 22/3/2023 đối với:

* Bị cáo: Đặng Thị Ánh T, sinh ngày: 09/11/2006, tại xã Nam Phúc T, Huyện Cẩm X, tỉnh Hà Tĩnh; Nơi cư trú: Thôn Trung Đ, xã Nam Phúc T, Huyện Cẩm X, tỉnh Hà Tĩnh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hoá: Lớp 11/12; Nghề nghiệp: Học sinh; Chức vụ, đảng phái: Quần chúng; Con ông Đặng Quốc N, sinh năm 1983 và con bà Chu Thị C, sinh năm 1985, trú tại Thôn Trung Đ, xã Nam Phúc T, Huyện Cẩm X, tỉnh Hà Tĩnh; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 12/01/2023 đến nay, tại xã Nam Phúc T, Huyện Cẩm X, tỉnh Hà Tĩnh. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Bị cáo: Nguyễn Bá H, sinh ngày: 16/5/2006, tại thị trấn Cẩm X, Huyện Cẩm X, tỉnh Hà Tĩnh; Nơi cư trú: Tổ dân phố 16, thị trấn Cẩm X, Huyện Cẩm X, tỉnh Hà Tĩnh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hoá: Lớp 10/12; Nghề nghiệp: Học sinh; Chức vụ, đảng phái: Quần chúng; Con ông Nguyễn Bá K, sinh năm 1956 và con bà Hoàng Thị B, sinh năm 1953, trú tại tổ dân phố 16, thị trấn Cẩm X, Huyện Cẩm X, tỉnh Hà Tĩnh; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 12/01/2023 đến nay, tại thị trấn Cẩm X, Huyện Cẩm X, tỉnh Hà Tĩnh. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người đại diện hợp pháp cho bị cáo Đặng Thị Ánh T: Bà Chu Thị C, sinh năm 1985; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trú tại: Thôn Trung Đ, xã Nam Phúc T, Huyện Cẩm X, tỉnh Hà Tĩnh (Có mặt) - Người đại diện hợp pháp cho bị cáo Nguyễn Bá H: Bà Hoàng Thị B, sinh năm 1953; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trú tại: TDP 16, thị trấn Cẩm X, Huyện Cẩm X, tỉnh Hà Tĩnh (Có mặt) - Người bào chữa cho các bị cáo: Ông Võ Quốc H - Trợ giúp viên pháp lý, thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh H(Có mặt) * Người bị hại:

- Chị Đặng Thị P, sinh năm 1999; Nghề nghiệp: Giáo viên; Trú tại: Thôn Đông Nam L, xã Cẩm T, Huyện Cẩm X, tỉnh Hà Tĩnh (Có mặt)

- Chị Trương Thị T, sinh năm 1994; Nghề nghiệp: Giáo viên; Trú tại: Thôn Hưng M, xã Cẩm T, Huyện Cẩm X, tỉnh Hà Tĩnh (Có mặt)

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Hoàng Văn D, sinh năm 1988; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trú tại: Thôn M, xã Cẩm Q, Huyện Cẩm X, tỉnh Hà Tĩnh (Vắng mặt)

* Người làm chứng: Bà Vũ Thị Mai H, sinh năm 1973; Trú tại: Tổ 3, phường Đại N, thành phố Hà T, tỉnh Hà Tĩnh (Vắng mặt).

* Đại diện Trường THPT C, Huyện Cẩm X (Vắng mặt)

* Đại diện Trường THPT Phan Đình G, Huyện Cẩm X (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có tại hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 07 giờ 30 phút ngày 13/11/2022, Đặng Thị Ánh T cùng Nguyễn Bá H, thuê taxi (không rõ họ tên, địa chỉ người lái xe, hãng xe) đến Trường tiểu học thị trấn Cẩm X, thuộc địa phận tổ dân phố 15, thị trấn Cẩm X, Huyện Cẩm X để xem đánh bóng chuyền. Khi đến, T thấy ở bậc cửa sổ của nhà thi đấu đa năng có 01 chiếc túi xách màu đỏ, nghĩ bên trong có tài sản nên T nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Để thực hiện ý định trên, T đi ra gặp H nói “Tau thấy một cái túi xách màu đỏ”(ý nói phát hiện thấy túi xách và rủ H lấy trộm), H nói “Có chi không”, T trả lời “Hình như có điện thoại ở trong”, H nói “Rứa thì lấy đi”, T đồng ý và nói “Ok”. Sau đó, T đi vào trong nhà thi đấu đa năng, quan sát thấy không có ai để ý nên cầm chiếc túi xách rồi chạy ra ngoài khu vực sân trường gặp đưa cho H, H kẹp túi xách vào nách bên trái để che lại rồi cả hai chạy theo hướng ra ngoài cổng trường. Sau đó, T nói với H có việc riêng nên đi bộ về nhà, còn H đi bộ dọc theo đường Nguyễn Biên, hướng lên tổ dân phố 8, thị trấn Cẩm Xuyên. Khi đi qua ki ốt bỏ hoang, thuộc địa phận tổ dân phố 8, thị trấn Cẩm Xuyên, H vào trong mở túi xách thấy có 02 chiếc điện thoại, gồm: 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu IPHONE 11 màu trắng, 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu IPHONE 11 màu xanh, 400.000 đồng tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam đang lưu hành. H lấy số tài sản trên bỏ vào túi quần rồi vứt chiếc túi gần bụi cây một bên ki ốt, sau đó chạy về nhà ở của gia đình mình. Khi về đến nhà, H lấy 02 chiếc điện thoại vừa trộm được, mở mật khẩu nhưng không được nên điện thoại bị vô hiệu hóa, H cất toàn bộ tài sản đã lấy trộm vào trong gối ngủ. Một lúc sau, T liên lạc hỏi H về số tài sản trộm cắp được, H trả lời “Có hai điện thoại nhưng không có tiền”, cả hai hẹn buổi chiều cùng ngày tiêu thụ tài sản. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày, Nguyễn Bá H thuê taxi (không rõ họ tên, địa chỉ người lái xe, hãng xe) đến cổng trường Trung học phổ thông Cẩm Xuyên chở T, rồi cả hai đến cửa hàng điện thoại Hoàng D Mobile tại thôn M, xã Cẩm Q, huyện Cẩm Xuyên, do anh Hoàng Văn D chủ cửa hàng để bán chiếc điện thoại nhãn hiệu IPHONE 11 màu trắng trước đó đã lấy trộm được. Khi đến nơi, T ở ngoài đợi, còn H đi vào gặp anh D nói “Anh có mua điện thoại ni không”. Anh D xem qua thấy màn hình bị vô hiệu hóa, hỏi lại H “Điện thoại của ai đây”, H trả lời “Của chị gái cho em nhưng để lâu rồi không nhớ mật khẩu”. Nghe H nói vậy nên anh D nói “Máy bị vô hiệu hóa nên mua 1.300.000 đồng thôi”, H đồng ý và nói “Ok anh”. H cầm tiền đưa cho T 600.000 đồng, H giữ lại 700.000 đồng. Đến khoảng 10 giờ ngày 14/11/2022, H và T hẹn gặp nhau ở khu vực ngã ba thị trấn Cẩm Xuyên, nơi giao nhau giữa Quốc lộ 1A với đường Thiên Cầm, để tìm cách bán chiếc điện thoại Iphone 11 màu xanh. Thấy một người đàn ông không rõ tên tuổi, địa chỉ điều khiển xe mô tô thu mua các loại đồ điện tử và phế liệu đi qua, H hỏi người đàn ông “Có mua điện thoại ni không?”. Người đàn ông trả lời “Có, giá bao nhiêu”. Lúc đó, H nói “Điện thoại ni của chị gái cho nhưng không nhớ mật khẩu nên bán giá ba triệu”. Người đàn ông xem điện thoại và đồng ý mua với giá 3.000.000 đồng. H chia cho T 1.500.000 đồng, H giữ lại 1.500.000đồng, rồi cả hai ra về.

Ngày 23/11/2022, chị Đặng Thị P và chị Trương Thị T làm đơn trình báo Công an thị trấn Cẩm Xuyên. Ngày 24/11/2022, Công an thị trấn Cẩm Xuyên đã triệu tập Đặng Thị Ánh T và Nguyễn Bá H, cả hai đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Kết luận định giá tài sản số 01/KL-HĐĐG ngày 03/01/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, kết luận: 01 chiếc túi xách, chất liệu bằng da màu đỏ, nhãn hiệu CHARLES KEITH, phía trên có 01 dây đeo làm bằng kim loại dạng móc xích (đã cũ, đã qua sử dụng) có giá trị là: 50.000 đồng; 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu IPHONE 11 màu trắng, dung lượng 128 GB, số IMEI: 352682656163549 (đã qua sử dụng từ tháng 05/2022) có giá 10.300.000 đồng; 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu IPHONE 11 màu xanh, dung lượng 64 GB (đã qua sử dụng từ tháng 05/2021) có giá trị là: 9.000.000 đồng, phía sau có 01 chiếc ốp lưng màu trắng đã cũ, giá trị 0 đồng.

Tổng giá trị tài sản Đặng Thị Ánh T và Nguyễn Bá H đã chiếm đoạt của chị Đặng Thị P và Trương Thị T là 19.750.000 đồng.

- Về vật chứng: Trong quá trình điều tra, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Huyện Cẩm Xuyên đã thu giữ và xử lý:

+ 01 chiếc túi xách, chất liệu bằng da màu đỏ, nhãn hiệu CHARLES KEITH, phía trên có 01 dây đeo làm bằng kim loại dạng móc xích, đã qua sử dụng, đã trả cho chị Đặng Thị P.

+ 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu IPHONE 11 màu trắng, đã qua sử dụng, tình trạng máy đang bị vô hiệu hóa, đã trả cho chị Trương Thị T.

+ Đối với 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu IPHONE 11, màu xanh cùng với 01 chiếc ốp lưng mà Đặng Thị Ánh T và Nguyễn Bá H chiếm đoạt của chị Đặng Thị P. Quá trình điều tra, các bị cáo khai sau khi trộm cắp đã bán cho một người đàn ông đi thu mua các loại đồ điện tử và phế liệu qua đường, không rõ họ tên, địa chỉ, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Huyện Cẩm Xuyên đã tiến hành truy tìm nhưng không thu hồi được.

* Về trách nhiệm dân sự: Sau khi vụ việc xảy ra, Đặng Thị Ánh T và Nguyễn Bá H đã tác động gia đình thỏa thuận bồi Tờng dân sự cho bị hại chị Đặng Thị P số tiền 9.400.000 đồng; bị hại chị Trương Thị T, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Hoàng Văn D không yêu cầu các bị cáo bồi Tờng.

Với hành vi nêu trên, tại bản Cáo trạng số: 18/CT-VKSCX ngày 20/3/2023, Viện kiểm sát nhân dân Huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh đã truy tố Đặng Thị Ánh T và Nguyễn Bá H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân Huyện Cẩm Xuyên giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về hình phạt:

+ Áp dụng Khoản 1 Điều 173; Điểm o Khoản 1 Điều 52; Điểm b, i, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 90, Điều 91, Khoản 1 Điều 101; Điều 17, Điều 58 và Điều 65 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Đặng Thị Ánh T mức án từ 09 đến 12 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo với thời gian thử thách từ 18 đến 24 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

+ Áp dụng Khoản 1 Điều 173; Điểm b, i, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 90, Điều 91, Khoản 1 Điều 101; Điều 17, Điều 58 và Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Bá H mức án từ 08 đến 10 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo với thời gian thử thách 16 đến 20 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Về biện pháp tư pháp: Truy thu sung quỹ Nhà nước số tiền thu lợi bất chính từ bị cáo Nguyễn Bá H 700.000 đồng; Đặng Thị Ánh T 600.000 đồng. Bị cáo Đặng Thị Ánh T và Nguyễn Bá H là người chưa thành niên, không có tài sản riêng nên buộc người đại diện hợp pháp nộp thay.

- Về án phí: Buộc Đặng Thị Ánh T và Nguyễn Bá H mỗi bị cáo phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa, các bị cáo, người đại diện hợp pháp cho các bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát; Người bào chữa cho các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào tính chất hành vi phạm tội, nhân thân, độ tuổi, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để giảm nhẹ hình phạt mức thấp nhất cho các bị cáo và cho các bị cáo được hưởng án treo để có cơ hôi sữa chữa sai lầm, tiếp tục được học tập.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ tài liệu có tại hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét thấy rằng:

[1] Về tính hợp pháp của quyết định và hành vi của các cơ quan và những người tiến hành tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra Công an Huyện Cẩm Xuyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Huyện Cẩm Xuyên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về hành vi phạm tội: Quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa, bị cáo Đặng Thị Ánh T và Nguyễn Bá H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của các bị cáo là khách quan, phù hợp với Cáo trạng đã truy tố, cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Vì vậy, Hội đồng xét xử có căn cứ kết luận: Vào hồi 07 giờ 45 phút ngày 13/11/2022, tại nhà thi đấu đa năng của Trường tiểu học thị trấn Cẩm Xuyên, thuộc địa phận tổ dân phố 15, thị trấn Cẩm X, Huyện Cẩm X, tỉnh Hà Tĩnh, lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu trong việc quản lý tài sản, Đặng Thị Ánh T và Nguyễn Bá H đã lén lút chiếm đoạt của chị Đặng Thị P 01 chiếc túi xách bên trong có: 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu IPHONE 11, phía sau có 01 chiếc ốp lưng; 400.000 đồng tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam đang lưu hành và 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu IPHONE 11 của chị Trương Thị T gửi nhờ chị P cất trong túi xách. Tổng giá trị tài sản T và H đã chiếm đoạt của chị P và chị T là 19.750.000 đồng.

Hành vi trên của Đặng Thị Ánh T và Nguyễn Bá H đã cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” tội danh và hình phạt được quy định tại Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Do đó, việc xét xử các bị cáo về tội danh, điều luật như Cáo trạng đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình truy tố cũng như tại phiên tòa Viện kiểm sát nhân dân Huyện Cẩm Xuyên đề nghị áp dụng tình tiết tăng nặng “Xúi dục người dưới 18 tuổi phạm tội” quy định tại điểm o Khoản 1 Điều 52 BLHS đối với bị cáo Đặng Thị Ánh T. Hội đồng xét xử thấy rằng: Bản thân bị cáo Đặng Thị Ánh T và Nguyễn Bá H đều là người chưa thành niên (tại thời điểm phạm tội bị cáo T 16 tuổi 04 ngày, bị cáo H 16 tuổi 05 tháng 27 ngày), xét về độ tuổi cũng như mức độ nhận thức giữa bị cáo H và T không có sự chênh lệch; sự tác động mang tính “rủ rê, xúi dục” của hai bị cáo với nhau dẫn đến việc các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội không được thể hiện rõ. Các bị cáo cũng khẳng định việc mình thực hiện hành vi phạm tội không phải do người kia xúi dục hay vì động cơ vật chất nào khác, các bị cáo là bạn bè với nhau, cùng nhau trộm cắp tài sản để lấy tiền tiêu xài. Trong khi đó, nguyên tắc quan trọng trong xét xử người chưa thành niên phạm tội được quy định tại Khoản 3 Điều 416 Bộ luật Tố tụng hình sự mà các cơ quan tiến hành tố tụng phải xác định đó là “Có hay không có người đủ 18 tuổi trở lên xúi giục” chứ không bắt buộc phải chứng minh “có hay không có người dưới 18 tuổi xúi giục”. Để đảm bảo nguyên tắc có lợi cho bị cáo, cũng như nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội được pháp luật hình sự quy định thì Hội đồng xét xử không áp dụng tình tiết tăng nặng “Xúi dục người dưới 18 tuổi phạm tội” đối với bị cáo Đặng Thị Ánh T theo đề nghị của Viện kiểm sát.

Các bị cáo không chịu tình tiết tăng nặng nào; Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên toà, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cãi; các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; sau khi sự việc xảy ra, các bị cáo đã tác động gia đình bồi Tờng cho người bị hại theo thỏa thuận, người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Điểm b, i, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tại thời điểm phạm tội, các bị cáo chưa đủ 18 tuổi nên được hưởng chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định của Bộ luật hình sự.

[4] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa P, gây dư luận xấu trong nhân dân. Các bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu trong việc quản lý tài sản rồi có hành vi lén lút chiếm đoạt với tổng trị giá 19.750.000 đồng. Do đó, cần xử phạt các bị cáo mức án nghiêm minh, tương xứng với tính chất, hành vi phạm tội của các bị cáo. Bị cáo Đặng Thị Ánh T là người phát hiện và khởi xướng việc trộm cắp tài sản, thực hành tích cực nên phải chịu mức án cao hơn bị cáo Nguyễn Bá H. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét thấy rằng, tại thời điểm phạm tội và thời điểm xét xử, các bị cáo chưa đủ 18 tuổi, các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng, việc học tập của các bị cáo đang còn bị tạm dừng, dở giang. Vì vậy, không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mà cần cho các bị cáo được hưởng án treo để có cơ hội để sửa chữa sai lầm, hòa nhập với cộng đồng xã hội và có thể tiếp tục được học tập, thể hiện tính nhân đạo, nhân văn của pháp luật như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Huyện Cẩm Xuyên tại phiên tòa.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bồi Tờng gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về biện pháp tư pháp: Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền thu lợi bất chính từ Nguyễn Bá H 700.000 đồng; Đặng Thị Ánh T 600.000 đồng. Đặng Thị Ánh T và Nguyễn Bá H là người chưa thành niên, không có tài sản riêng nên buộc người đại diện hợp pháp nộp thay. Tại phiên tòa người đại diện hợp pháp cho các bị cáo nhất trí nộp thay cho các bị cáo.

[7] Đối với anh Hoàng Văn D đã mua chiếc điện thoại nhãn hiệu IPHONE 11 của chị Trương Thị T do bị cáo T và bị cáo H phạm tội mà có. Quá trình điều tra xác định, khi mua tài sản, anh Dũng không biết đó là tài sản do phạm tội mà có nên không phải chịu trách nhiệm hình sự.

Đối với người đàn ông đã thu mua chiếc điện thoại nhãn hiệu IPHONE 11 phía sau có chiếc ốp lưng các bị cáo phạm tội mà có. Theo lời khai của các bị cáo trình bày không biết rõ nhân thân, lai lịch của người đàn ông này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Huyện Cẩm Xuyên không đủ cơ sở xác minh để xử lý.

[8] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo luật định.

[9] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, người đại diện hợp pháp cho bị cáo, người bào chữa cho bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Đặng Thị Ánh T và Nguyễn Bá H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng Khoản 1 Điều 173; Điểm b, i, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 58; Điều 90, Điều 91, Khoản 1 Điều 101 và Điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Đặng Thị Ánh T 10 (Mười) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo với thời gian thử thách 20 (Hai mươi) tháng. Thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 06/4/2023).

- Áp dụng Khoản 1 Điều 173; Điểm b, i, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 58; Điều 90, Điều 91, Khoản 1 Điều 101 và Điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Bá H 09 (Chín) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo với thời gian thử thách 18 (Mười tám) tháng. Thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 06/4/2023).

Giao bị cáo Đặng Thị Ánh T cho Ủy ban nhân dân xã Nam Phúc T, huyện Cẩm X, tỉnh Hà Tĩnh; Giao bị cáo Nguyễn Bá H cho Uỷ ban nhân dân thị trấn Cẩm X, huyện Cẩm X, tỉnh Hà Tĩnh giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình các bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa P trong việc giám sát, giáo dục các bị cáo.

Trong trường hợp người phải thi hành án thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo Khoản 1 Điều 92 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Biện pháp tư pháp: Áp dụng Điểm a Khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự; Điểm b Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 700.000 đồng (Bảy trăm nghìn đồng) từ bị cáo Nguyễn Bá H. Bị cáo là người chưa thành niên, không có tài sản riêng, vì vậy buộc người đại diện hợp pháp là bà Hoàng Thị B (mẹ đẻ bị cáo) nộp thay cho Nguyễn Bá H.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 600.000 đồng (Sáu trăm nghìn đồng) từ bị cáo Đặng Thị Ánh T. Bị cáo là người chưa thành niên, không có tài sản riêng, vì vậy buộc người đại diện hợp pháp là bà Chu Thị C (mẹ đẻ bị cáo) nộp thay cho Đặng Thị Ánh T.

3. Về án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 135, Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a Khoản 1 Điều 3, Khoản 1 Điều 21, Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Tờng vụ Quốc hội. Buộc Đặng Thị Ánh T và Nguyễn Bá H mỗi bị cáo phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Các bị cáo, người đại diện hợp pháp cho bị cáo, người bào chữa cho bị cáo, người bị hại có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bán án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

49
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 16/2023/HS-ST

Số hiệu:16/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cẩm Xuyên - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về