Bản án về tội trộm cắp tài sản số 16/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TY, TỈNH YÊN BÁI

BN ÁN 16/2022/HS-ST NGÀY 20/09/2022 VỀ TỘI TRM CẮP TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 9 năm 2022, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện TY, tỉnh Yên Bái xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 17/2022/TLST-HS ngày 06 tháng 9 năm 2022 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2022/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 9 năm 2022, đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 01/7/1977 tại Yên Bái. Nơi cư trú: xã ĐA, huyện VY, tỉnh Yên Bái. Nơi ở hiện tại: Thôn TT, xã XT, huyện VY, tỉnh Yên Bái; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ hoc vân: 03/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Bố mẹ đẻ không xác định được; Là con nuôi bà: Nguyễn Thị P (sinh năm 1952) - Hiên trú tại huyện ĐP, thành phố Hà Nội; Có vợ là Đỗ Thị H, sinh năm 1979 (Đã ly hôn), có một con là Nguyễn Thị Huyền T, sinh năm 1998 – hiện trú tại xã ĐC, huyện VY, tỉnh Yên Bái.

Tiền án: 01. Tại Bản án số 09/2018/HS-ST ngày 22/5/2018 của Tòa án nhân dân huyện VY, tỉnh Yên Bái xử phạt 03 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Tiền sự: Không.

Nhân thân:

+ Tại Bản án số 03 ngày 24/3/1999 của Toà án nhân dân huyện VY, tỉnh Yên Bái xử phạt 06 tháng tù về tội”Trộm cắp tài sản của công dân”.

+ Tại Bản án số 04/2015/HS-ST ngày 12/3/2015 của TAND huyện BY, tỉnh Lào Cai xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

+ Quyết định số 57/QĐ ngày 02/11/2007 Công an huyện VY, tỉnh Yên Bái xử phạt tiền về hành vi đánh bạc; Quyết định số 83/QĐ-XPHC ngày 10/7/2012 Công an huyện VY, tỉnh Yên Bái xử phạt tiền về hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý; Quyết định số 93/QĐ-XPHC ngày 08/8/2016 Công an huyện VY, tỉnh Yên Bái xử phạt tiền về hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý; Quyết định số 16/QĐ-XPHC ngày 02/01/2018 Công an huyện VY, tỉnh Yên Bái xử phạt tiền về hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Bị cao bi tạm giữ từ ngày 06/7/2022. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Yên Bái – Có mặt.

* Bị hại:

- Chị Đỗ Thị Đ, sinh năm 1979.

Nơi cư trú: Thôn MT, xã YC, huyện TY, tỉnh Yên Bái -Vắng mặt có đơn đề nghị giải quyết, xét xử vắng mặt.

* Ngƣời có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

- Anh Đỗ Ngọc B, sinh năm 1982.

Nơi cư trú: Thôn MT, xã YC, huyện TY, tỉnh Yên Bái- Vắng mặt.

Ngưi đại diện được anh B uỷ quyền Chị Đỗ Thị Đ, trú tại Thôn MT, xã YC, huyện TY theo văn bản uỷ quyền ngày 08/7/2022. Vắng mặt có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dụng vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn T là đối tượng nghiện ma tuý sinh sống tại xã XT, huyện VY, tỉnh Yên Bái. Sáng ngày 03-7-2022, T một mình điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Taurus biển kiểm soát 21V8-20XX đi theo đường tỉnh lộ 166 xuống thành phố YB. Khi đi qua địa phận Thôn MT, xã YC, huyện TY, tỉnh Yên Bái, Nguyễn Văn T phát hiện quán bán hàng ăn sáng của Chị Đỗ Thị Đ có chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade biển kiểm soát 21V8-88YY dựng ở sân. Quan sát thấy quán không có người và chìa khoá điện vẫn cắm trên xe nên T nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. T dừng chiếc xe Yamaha Taurus cách quán khoảng 10m rồi quay lại đi đến chỗ chiếc xe Honda Aiblade mở ổ khoá điện, đề nổ xe và điều khiển về thành phố YB, sau đó trở về nhà theo đường YB -KS.

Khi về nhà, T tháo biển kiểm soát xe cất trong cốp và thay bằng biển kiểm soát 21B1-73962 do T nhặt được, đồng thời sử dụng chiếc xe trên làm phương tiện đi lại.

Khong 12 giờ cùng ngày 03-7-2022, Chị Đỗ Thị Đ phát hiện bị mất chiếc xe mô tô chị đã mượn của em trai ruột là anh Đỗ Ngọc B cùng chung sống trong gia đình, chị Đ đã báo cáo sự việc đến Công an xã YC, huyện TY, tỉnh Yên Bái. Qua kiểm tra camera an ninh tại các địa điểm lân cận, Cơ quan điều tra đã phát hiện và triệu tập Nguyễn Văn T đến làm việc đồng thời thu giữ tang vật là chiếc xe mô tô Honda Aiblade cùng các giấy tờ có trong cốp xe.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 16/KL-HĐĐGTS ngày 06-7-2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện TY, tỉnh Yên Bái kết luận:

Đnh giá một xe mô tô nhãn hiệu AIR BLADE, màu sơn trắng - đen, số máy F18E- 54142AA, số khung 18028Y8054BB, biển kiểm soát 21V8-88YY, xe đã qua sử dụng:

Tại thời điểm bị xâm hại, tài sản đã sử dụng được 14 năm, giá trị tài sản hao mòn là 100% = 36.000.000 đồng. Tuy nhiên chiếc xe vẫn đang hoạt động bình thường, vẫn còn giá trị sử dụng, Hội đồng định giá xác định giá trị tài sản tại thời điểm bị xâm hại là 2.520.000 đồng (Hai triệu năm trăm hai mươi nghìn đồng).

Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Văn T đã thành khẩn khai báo và thừa nhận vào sáng ngày 03-7-2022, lợi dụng sơ hở của gia đình Chị Đỗ Thị Đ nên bị cáo đã có hành vi trộm cắp chiếc xe Honda Airblade biển kiểm soát 21V8-88YY màu trắng – đen trị giá 2.520.000 đồng để dùng làm phương tiện đi lại.

Tại bản cáo trạng số 16/CT-VKSTY ngày 06-9-2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TY, tỉnh Yên Bái truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TY luận tội đối với bị cáo giữ nguyên nội dung cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Về hình phạt:

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52;

của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

Bị cáo là người không có công việc ổn định, không có thu nhập, không có tài sản nên không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Đối với 01 xe mô tô Yamaha Taurus biển kiểm soát 21V8- 20XX màu đen; 01 ví giải da đã cũ; 01 mũ bảo hiểm; một đôi dép xốp; một áo ba lỗ màu trắng; một áo sơ mi dài tay là tài sản riêng của Nguyễn Văn T cần trả lại cho bị cáo T. Nhưng tại phiên tòa bị cáo chỉ xin lại chiếc xe mô tô Yamaha Taurus biển kiểm soát 21V8-20XX màu đen và không nhận lại các tài sản trên vì không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với vật chứng là biển kiểm soát 21B2-739.ZZ đã cũ, xác định không liên quan đến phương tiện giao thông đang lưu hành và không liên quan đến vụ án khác nên không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu huỷ.

Về án phí và quyền kháng cáo: Theo quy định pháp luật.

Ti phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, đồng ý với bản luận tội của Kiểm sát viên và không có ý kiến tranh luận gì.

Li nói sau cùng của bị cáo: đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án. Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ; ý kiến của Kiểm sát viên, của các bị cáo, những người tham gia tố tụng khác và những tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện TY, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện TY, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình s ự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận của bị cáo Nguyễn Văn T tại phiên Tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan¸ phù hợp với kết luận định giá tài sản và các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, như vậy đủ cở sở kết luận: Ngày 03-7-2022 taị địa phận Thôn MT, xã YC, huyện TY, tỉnh Yên Bái bị cáo Nguyễn Văn T đã có hành vi trộm cắp chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade, biển kiểm soát 21V8- 88YY, màu trắng - đen của Chị Đỗ Thị Đ có giá trị là 2.520.000 đồng. Xét bị cáo Nguyễn Văn T là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác. Hành vi này của bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

[3] Xét, hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Văn T là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Do đó cần đưa bị cáo ra xử lý nghiêm minh trước pháp luật mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm.

[4] Xét nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thấy rằng:

Bị cáo là đối tượng nghiện ma tuý, có nhân thân xấu, nhiều lần bị xét xử về tội trộm cắp tài sản, cụ thể: Tại bản án số 03/1999/HSST ngày 24-3-1999 của Toà án nhân dân huyện VY, tỉnh Yên Bái xử phạt bị cáo 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân” (đã được xoá án tích). Tại bản án số 04/2015/HSST Ngày 12-3-2015 của Toà án nhân dân huyện BY, tỉnh Lào Cai xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (đã được xoá án tích). Tại Quyết định số 57/QĐ-XPHC ngày 02-11-2007 của Công an huyện VY xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc; Tại Quyết định số 83/QĐ-XPHC ngày 10-2-2012 của Công an huyện VY xử phạt hành chính về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy; Tại Quyết định số 93/QĐ- XPHC ngày 08-8-2016 của Công an huyện VY xử phạt hành chính về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy; Tại Quyết định số 16/QĐ-XPHC ngày 02-01-2018 của Công an huyện VY xử phạt hành chính về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. (Các Quyết định xử lý hành chính đều đã hết thời hạn) Tiền án: Tại bản án số 09/2018/HS-ST ngày 22-5-2018 của Toà án nhân dân huyện VY, tỉnh Yên Bái xử phạt 03 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” chưa được xoá án tích. Nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học ăn năn hối cải mà lại tiếp tục phạm tội thuộc trường hợp tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Tuy nhiên trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Văn T đã thành khẩn khai báo, phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn. Đây là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình Sự để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt và thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

Từ những nhận định nêu trên, trên cơ sở xem xét toàn diện tính chất, mức độ, hành vi phạm tội cũng như nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy. Cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có thể giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa tội phạm nói chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo là người nghiện chất ma tuý, không có thu nhập ổn định, không có tài sản nên không cần thiết áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại Đỗ Thị Đ và người liên quan Đỗ Ngọc B đã nhận lại tài sản đầy đủ, không có yêu cầu đòi bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về vật chứng vụ án:

- Đối với một chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade biển kiểm soát 21V8- 88YY màu trắng - đen, 01 đăng ký xe mô tô mang tên Đỗ Ngọc B, 01 giấy phép lái xe mang tên Đỗ Thị Đ, 01 thẻ bảo hiểm mang tên Đỗ Thị Đ: Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu.

- Đối với vật chứng gồm: 01 ví giải da đã qua sử dụng có chữ Levis; 01 xe mô tô Yamaha Taurus biển kiểm soát 21V8-20XX màu đen; 01 mũ bảo hiểm kín đầu màu bạc; một đôi dép xốp màu bạc kẻ sọc vàng; một áo ba lỗ màu trắng; một áo sơ mi dài tay kẻ sọc là tài sản riêng của Nguyễn Văn T, quá trình điều tra và tại phiên Tòa đã làm rõ không liên quan đến vụ án, cần trả lại cho bị cáo T. Tuy nhiên tại phiên tòa bị cáo chỉ xin lại chiếc xe mô tô Yamaha Taurus biển kiểm soát 21V8-20XX màu đen và không nhận lại các tài sản trên vì không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với vật chứng là biển kiểm soát 21B2-739.ZZ đã cũ, qua điều tra xác minh xác định được không liên quan đến phương tiện giao thông đang lưu hành và không liên quan đến vụ án khác nên không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu huỷ.

Toàn bộ vật chứng nêu trên có đặc điểm theo biên bản giao nhận vật chứng với Chi cục Thi hành án dân sự huyện TY ngày 14-9-2022.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 02 (Hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam 06-7-2022.

3. Vê vât chưng:

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự ; điểm c khoan 2, điểm a khoản 3 Điêu 106 của Bô luât tô tung hinh sư;

Tịch thu tiêu hủy : 01 biển kiểm soát 21B2-739.ZZ; 01 ví giải da màu đen có chữ Levis; 01 mũ bảo hiểm có chữ Andres Helmet R màu bạc; một đôi dép xốp màu bạc kẻ sọc vàng; một áo ba lỗ màu trắng; một áo sơ mi dài tay kẻ sọc trắng, đen, xám.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn T 01 xe mô tô Yamaha Taurus biển kiểm soát 21V8-20XX màu đen.

Toàn bộ vật chứng nêu trên có đặc điểm theo biên bản giao nhận vật chứng với Chi cục Thi hành án dân sự huyện TY ngày 14-9-2022.

4. Về án phí:

Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, giảm, miễn, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm

5. Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự:

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 ,7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

152
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 16/2022/HS-ST

Số hiệu:16/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trấn Yên - Yên Bái
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về