Bản án về tội trộm cắp tài sản số 16/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ LỘC, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 16/2022/HS-ST NGÀY 10/05/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 10/2022/TLST-HS ngày 31 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2022/QĐXXST- HS ngày 26 tháng 4 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Trần Xuân T, sinh năm 1988 tại thành phố Đ, tỉnh Nam Định.

Nơi cư trú: Số X đường Q, phường T, thành phố Đ, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hoá: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn Đ và bà Nguyễn Thị L (đều đã chết); có vợ Trần Phương T, chưa có con; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Bản án số 129/2013/HSST ngày 25/4/2013 Toà án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xử phạt 29 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” đã được xoá án tích; hiện đang chấp hành hình phạt 21 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 22/2022/HSST ngày 24/02/2022 của Toà án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định; có mặt.

2. Đặng Hoàng H, sinh năm 1985 tại thành phố Đ, tỉnh Nam Định.

Nơi cư trú: Số C khu tập thể H, phường T, thành phố Đ, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Minh K và bà Trần Thị N; có vợ Nguyễn Thị Thanh T và 02 con; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Bản án số 363/2012/HSST ngày 22/11/2012 Toà án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” đã được xoá án tích; hiện đang chấp hành hình phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 22/2022/HSST ngày 24/02/2022 của Toà án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định; có mặt.

- Bị hại: Bà Nguyễn Thị K, sinh năm 1965; Nơi cư trú: Thôn T, xã P, huyện L, tỉnh Nam Định; vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Nguyễn Mạnh D, sinh năm 1980; Nơi cư trú: Số Y đường B, phường C, thành phố Đ, tỉnh Nam Định; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Xuân T và Đặng Hoàng H có mối quan hệ bạn bè xã hội với nhau. Để có tiền tiêu xài, cả hai bàn bạc cùng nhau đi tìm cục nóng điều hoà của nhà dân được lắp đặt ngoài trời để tháo lấy đem đi bán. Ngày 24/11/2021, H điều khiển xe mô tô biển kiểm soát (BKS) 18B1-115.xx chở T ngồi sau đi theo đường D thuộc địa phận xã P, huyện L, tỉnh Nam Định, quan sát thấy tại tường nhà khu xét nghiệm Covid-19 của Phòng khám Đa khoa N ở thôn T có treo một cục nóng điều hoà cách mặt đất khoảng 01 mét nên thống nhất sẽ lấy. Khoảng 01 giờ ngày 26/11/2021, T đi bộ mang theo kìm, clê và dao đến nhà H để cùng nhau đi tháo cục nóng điều hoà như đã bàn bạc trước đó. H điều khiển xe mô tô chở T đi đến Phòng khám N thì dừng xe đứng ngoài cảnh giới, T mang công cụ vào tháo cục nóng điều hoà ra khỏi giá đỡ rồi cả hai bê lên xe cho T ngồi sau giữ để H chở về nhà T cất giấu. Đến 07 giờ cùng ngày, H điều khiển xe mô tô chở T mang cục nóng điều hoà đến cửa hàng điện lạnh D ở đường B, thành phố Đ bán lấy 1.700.000đ chia nhau tiêu xài.

Sau khi phát hiện bị mất chiếc cục nóng điều hoàn, bà Nguyễn Thị K - Trưởng Phòng khám N đã đến Công an xã P trình báo vụ việc. Ngày 21/12/2021, Công an huyện Mỹ Lộc nhận được công văn của Công an thành phố Nam Định về việc trong quá trình khai thác, mở rộng điều tra vụ án “Trộm cắp tài sản” xảy ra trên địa bàn thành phố Nam Định đã xác định được T và H thực hiện hành vi trộm cắp cục nóng điều hoà tại Phòng khám Đa khoa N. Cơ quan điều tra Công an huyện Mỹ Lộc đã tiếp nhận hồ sơ vụ việc để giải quyết theo thẩm quyền.

Bản kết luận định giá tài sản số 01/KL-HĐĐGTS ngày 06/01/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Mỹ Lộc kết luận: 01 cục nóng điều hoà đã cũ nhãn hiệu Caper loại 18000 BTU, có giá trị là: 4.000.000đ (Bốn triệu đồng).

Tại Cơ quan điều tra, T và H khai nhận toàn bộ hành vi chiếm đoạt chiếc cục nóng điều hoà của Phòng khám Đa khoa N như trên. Bà Nguyễn Thị K đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu đề nghị bồi thường gì. Vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội của các bị cáo đã được xử lý tại Bản án số 22/2022/HSST ngày 24/02/2022 của Toà án nhân dân thành phố Nam Định.

Việc anh Nguyễn Mạnh D – Chủ cửa hàng điện lạnh Mạnh D đã mua chiếc cục nóng điều hoà của T và H, qua điều tra xác định anh D không biết đó là tài sản do phạm tội mà có nên Cơ quan điều tra không xử lý đối với anh D và anh D đã được nhận lại số tiền bỏ ra mua chiếc cục nóng điều hoà là 1.700.000đ do bà Trần Thị N mẹ của H tự nguyện đứng ra bồi thường.

Bản cáo trạng số 14/CT- VKSML ngày 30/3/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định truy tố các bị cáo Trần Xuân T, Đặng Hoàng H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự; xác định bị cáo T giữ vai trò thứ nhất, bị cáo H giữ vai trò thứ hai trong vụ án; các bị cáo đều không phải chịu tình tiết tăng nặng, được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là “Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; bị cáo H đã tác động gia đình bồi thường cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà: Các bị cáo T, H thành khẩn khai nhận rõ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng Viện kiểm sát truy tố; xác nhận kết luận định giá về giá trị tài sản chiếm đoạt là đúng; Viện kiểm sát truy tố là không oan và xin nhận trách nhiệm về hậu quả đã gây ra. Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo; đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản”; căn cứ khoản 1 Điều 173, Điều 17, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 56 và Điều 58 Bộ luật hình sự (đối với cả hai bị cáo); điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự (đối với bị cáo H), đề nghị xử phạt bị cáo T từ 18 đến 21 tháng tù; xử phạt bị cáo H từ 15 đến 18 tháng tù; tổng hợp hình phạt với thời hạn tù tại tại Bản án số 22/2022/HSST ngày 24/02/2022 của Toà án nhân dân thành phố Nam Định để buộc các bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án. Các bị cáo không bào chữa, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mỹ Lộc cũng như Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Lộc cũng như Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà các bị cáo, bị hại cũng như những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Xét thấy lời khai nhận giữa các bị cáo tại phiên toà là hoàn toàn phù hợp với nhau, phù hợp với các chứng cứ đã thu thập trong hồ sơ vụ án như: Đơn trình báo và lời khai của bị hại; biên bản, tài liệu khám nghiệm hiện trường vụ án; biên bản giao nhận tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử; biên bản nhận dạng; kết luận của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự cũng như toàn bộ lời khai các bị cáo tại cơ quan điều tra. Từ các tình tiết chứng cứ này đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 01 giờ ngày 26/11/2021, tại thôn T, xã P, huyện L, tỉnh Nam Định. Lợi dụng đêm tối, Trần Xuân T và Đặng Hoàng H đã câu kết với nhau thực hiện hành vi lén lút đột nhập vào Phòng khám Đa khoa N của gia đình bà Nguyễn Thị K chiếm đoạt tài sản là 01 cục nóng điều hoà hãn hiệu Caper, loại 18000 BTU có giá trị 4.000.000đ (Bốn triệu đồng). Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định truy tố các bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của các bị cáo Trần Xuân T và Đặng Hoàng H là nguy hiểm cho xã hội. Các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội dưới hình thức đồng phạm, có sự bàn bạc chuẩn bị từ trước, lựa chọn thời gian và địa điểm thuận lợi để xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác là khách thể được pháp luật Nhà nước bảo hộ. Mặt khác, hành vi đó không những gây bất bình, phẫn nộ trong quần chúng nhân dân mà còn ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội. Bản thân các bị cáo đều có đầy đủ năng lực hành vi, lịch sử nhân thân đều đã từng bị Toà án kết án phạt tù về hành vi phạm tội. Tuy nhiên, các bị cáo đã không lấy đó làm bài học thức tỉnh để hoàn lương mà trái lại, với ý thức lười lao động nhưng lại muốn có tiền để tiêu xài nên đã cùng nhau dấn thân vào con đường phạm tội. Điều đó chứng tỏ các bị cáo thực sự là khó cải tạo, luôn có tâm lý coi thường và thách thức pháp luật. Vì vậy, các bị cáo sẽ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của mình.

[4] Về vai trò đồng phạm trong vụ án: Các bị cáo cùng nhau bàn bạc, thống nhất thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo T mang theo công cụ, bị cáo H mang theo phương tiện để cùng nhau thực hiện hành vi phạm tội theo kế hoạch và cùng nhau mang tài sản chiếm đoạt đi tiêu thụ, chia đều nhau chiếm hưởng lợi ích vật chất nên các bị cáo đều có vai trò như nhau.

[5] Về trách nhiệm hình sự: Xét tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi, khách thể được pháp luật Nhà nước bảo hộ bị xâm phạm, động cơ mục đích phạm tội, hậu quả nguy hại cho xã hội và lịch sử nhân thân của các bị cáo thì việc cần thiết phải áp dụng biện pháp cách ly xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục là thoả đáng; đồng thời cũng mới đáp ứng được yêu cầu răn đe, giáo dục phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét thấy hành vi phạm tội của các bị cáo không có tình tiết nào bị coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; quá trình khai báo các bị cáo đều thành khẩn, ăn năn hối cải nên được Hội đồng xét xử xem xét vận dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là “Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo H đã tác động gia đình bồi thường toàn bộ số tiền các bị cáo chiếm hưởng từ việc bán tài sản trộm cắp nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xét mức án Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với các bị cáo là có phần nghiêm khắc, Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc để ấn định một mức án cụ thể, tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của từng bị cáo.

[5] Về tổng hợp hình phạt: Hiện bị cáo T đang chấp hành hình phạt 21 tháng tù; bị cáo H đang chấp hành hình phạt 18 tháng tù cùng về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 22/2022/HSST ngày 24/02/2022 của Toà án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định. Do đó, hình phạt được áp dụng đối với từng bị cáo tại bản án này sẽ được Hội đồng xét xử căn cứ vào quy định của pháp luật để tổng hợp với hình phạt của từng bị cáo tại bản án nêu trên để buộc các bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại bà Nguyễn Thị K - Trưởng Phòng khám Đa khoa N đã được trao trả chiếc cục nóng điều hoà bị chiếm đoạt; anh Nguyễn Mạnh D đã được nhận lại số tiền bỏ ra mua chiếc cục nóng điều hoà là 1.700.000đ do bà Trần Thị N mẹ bị cáo H tự nguyện đứng ra bồi thường và không ai có yêu cầu, đề nghị gì khác nên Hội đồng xét xử không đặt ra để giải quyết.

[7] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Trần Xuân T, Đặng Hoàng H phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

Căn cứ áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 17; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 56 và Điều 58 Bộ luật hình sự (đối với cả hai bị cáo); điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự (đối với bị cáo H);

Xử phạt bị cáo T 15 (Mười lăm) tháng tù, tổng hợp hình phạt với 21 tháng tù tại Bản án hình sự sơ thẩm số 22/2022/HSST ngày 24/02/2022 của Toà án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định. Buộc bị cáo T phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 36 (Ba sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 12 tháng 12 năm 2021;

Xử phạt bị cáo H 12 (Mười hai) tháng tù, tổng hợp hình phạt với 18 tháng tù tại Bản án hình sự sơ thẩm số 22/2022/HSST ngày 24/02/2022 của Toà án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định. Buộc bị cáo H phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 30 (Ba mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 12 tháng 12 năm 2021.

2. Về án phí:

Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội;

Các bị cáo T, H mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo:

Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án;

Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án;

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hạn thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

146
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 16/2022/HS-ST

Số hiệu:16/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Lộc - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về