Bản án về tội trộm cắp tài sản số 161/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BOM, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 161/2021/HS-ST NGÀY 03/11/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 03 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 181/2021/TLST-HS ngày 11 tháng 8 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 156/2021/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 9 năm 2021, Thông báo về việc thay đổi thời gian mở phiên tòa số 181/2021/TB-TA ngày 21/9/2021 và Thông báo thời gian, địa điểm xét xử vụ án số 60/TB-TA ngày 14/10/2021 đối với bị cáo:

Trương Nguyễn Phú H, sinh năm 2002 tại tỉnh Đồng Nai.

Nơi cư trú: Ấp 5, xã S, huyện B, tỉnh Đồng Nai.

Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 5/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trương Phú N và bà Nguyễn Thị Minh N; Bị cáo chưa có vợ con.

- Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giam ngày 15/6/2021. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đồng Nai. (Bị cáo có mặt).

Bị hại: Anh Trương Phú Q, sinh năm 1990 Địa chỉ: Ấp 5, xã S, huyện B, tỉnh Đồng Nai. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 08 giờ ngày 20/3/2021 Trương Nguyễn Phú H đi bộ đến nhà anh Trương Phú Q tại ấp 5, xã S, huyện B (chú ruột của H), do bận rộn công việc nên anh Q đi ra ngoài không khóa cửa, để H ngồi một mình trong nhà xem ti vi. H ngồi xem tivi được khoảng 05 phút thì thấy xe mô tô hiệu Honda Wave biển số 60B8 – 603.64 của anh Q để trong nhà nên nảy sinh ý định trộm cắp xe bán lấy tiền tiêu xài và mua ma túy sử dụng. H lén lút dắt chiếc xe trên ra khỏi nhà anh Q rồi mang đến tiệm sửa xe “Tuấn A” ở ấp 5, xã S, huyện B, tỉnh Đồng Nai. H nói với anh Hoàng Trọng A xe bị mất chìa khóa nên nhờ anh Hoàng Trọng A tháo, đấu nối dây điện để nổ máy. Sau đó H điều khiển xe mô tô biển số 60B8 – 603.64 đi đến nhà của Võ Đại X, ở ấp 6, xã S, huyện B để tìm chỗ bán xe. Trên đường đi H gặp bạn là Võ Chí T (tên thường gọi là L) đang điều khiển xe mô tô (không rõ biển số) nên H nhờ T đi cùng với mục đích bán được xe biển số 60B8- 603.64 thì nhờ T chở H về. Khoảng 09 giờ cùng ngày, H và T đến nhà X thì Huy dặn T đứng chờ ở ngoài đường còn H đưa xe mô tô biển số 60B8 – 603.64 vào trong nhà gặp X thỏa thuận bán xe mô tô biển số 60B8 – 603.64 cho X với giá 1.000.000 đồng, rồi sử dụng 200.000 đồng từ tiền bán xe để mua của X 01 bịch ma túy đá để sử dụng. Sau đó T chở H về đến đoạn gần Ủy ban nhân dân xã S thì H xuống xe đi bộ về nhà, số tiền 800.000 đồng còn lại H đã tiêu xài hết.

Sau khi anh Q đi công việc về thì phát hiện mất xe mô tô biển số 60B8 – 603.64, do nghi ngờ Huy là người trộm cắp nên anh Q đã đi tìm H. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày anh Q phát hiện H đang đi trên đường ở ấp 2, xã S, huyện B nên giữ H lại và báo công an xã S đến làm việc với H về việc mất trộm xe tại nhà anh Q thì H đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình, đồng thời thu giữ của H 01 bịch nylon hàn kín bên trong có chứa tinh thể màu trắng (H thừa nhận đó là ma túy đá) nên công an xã S đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang chuyển hồ sơ đến Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Trảng Bom Tại Bản kết luận định giá tài sản ngày 11/5/2021 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thuộc UBND huyện Trảng Bom kết luận: 01 xe mô tô Honda Wave biển số 60B8 – 603.64 có trị giá là 6.300.000 đồng.

Tại Bản kết luận giám định số: 1327/KLGĐ-PC09 ngày 25/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,1881 gam, loại Methamphetamine.

Ngày 24/5/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom đã ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Trương Nguyễn Phú H để điều tra theo quy định. Quá trình điều tra bị cáo H đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 xe mô tô Honda Wave biển số 60B8 – 603.64;

01 gói ny lon hàn kín bên trong chứa chất tinh thể màu trắng;

Tại bản cáo trạng số: 188/CT-VKS-TB ngày 02/8/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom truy tố bị cáo Trương Nguyễn Phú H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Đối với Võ Đại X do đã bỏ đi khỏi địa phương, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra thông báo truy tìm nhưng chưa xác định được X đang ở đâu, chưa làm việc được nên chưa có căn cứ để khỏi tố về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại Điều 323 và tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điều 251 Bộ luật Hình sự. Cơ quan Cảnh sát điều tra tách ra để tiếp tục điều tra, khi nào truy tìm được sẽ làm rõ xử lý sau theo quy định của pháp luật.

Đối với anh Hoàng Trọng A khi được H nhờ đấu nối dây điện nổ máy xe mô tô thì không biết xe có nguồn gốc do H trộm cắp mà có nên Cơ quan cảnh sát điều tra không xử lý.

Đối với Võ Chí T (tên thường gọi là Lít) qua xác minh tại địa Phương là đối tượng nghiện ma túy, hiện nay không có mặt tại địa phương, cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom đề nghị tách ra để tiếp tục điều tra, khi nào làm rõ được sẽ xử lý sau.

Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom trình bày lời luận tội vẫn giữ nguyên quyết định truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Trương Nguyễn Phú H từ 06 (sáu) tháng đến 09 (chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Trương Nguyễn Phú H từ 12 (mười hai) tháng đến 18 (mười tám tháng) tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về xử lý vật chứng: Đối với 01 phong bì niêm phong sau giám định số: 1327/KLGĐ-PC09 ngày 25/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai chứa ma tuý sau giám định đề nghị Toà án tuyên tịch thu tiêu hủy.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đã hối hận về hành vi phạm tội của mình, mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ để bị cáo sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Điều tra Công an huyện Trảng Bom, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại giai đoạn điều tra, với lời khai của bị hại, biên bản bắt người phạm tội quả tang, các chứng cứ khác có tại hồ sơ và cáo trạng mô tả. Từ đó đã có đủ cơ sở kết luận: Vào 08 giờ ngày 20/3/2021 tại ấp 5, xã S, huyện B, tỉnh Đồng Nai, Trương Nguyễn Phú H đã lén lút trộm cắp 01 xe mô tô hiệu Honda Wave biển số 60B8- 603.64 của anh Trương Phú Q trị giá 6.300.000 đồng. Đến 14 giờ cùng ngày tại ấp 2, xã S, huyện B, tỉnh Đồng Nai, Trương Nguyễn Phú H có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với khối lượng 0,1881 gam, loại Methamphetamine nhằm mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang.

Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự như cáo trạng đã truy tố là có căn cứ.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, làm mất an ninh trật tự tại địa phương và xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy và là một trong những nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm cũng như các tệ nạn xã hội khác. Nên cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm răn đe, cải tạo, giáo dục và phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết tăng nặng: Không có.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đối với tội “Trộm cắp tài sản” bị cáo được hưởng thêm tình tiết phạm tội gây thiệt hại không lớn; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng theo quy định tại điểm h, i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa thì bản thân bị cáo không có việc làm, không có thu nhập. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng:

- Đối với chiếc xe mô tô Honda Wave biển số 60B8- 603.64, số máy: HC12E-5556009, số khung: RLHHC1217DY555945 là tài sản thuộc quyền sở hữu của anh Trương Phú Q nên Cơ quan điều tra Công an huyện Trảng Bom đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho anh Q là phù hợp.

- Đối với số ma túy còn lại sau giám định được chứa trong 01 phong bì niêm phong số: 1327/KLGĐ-PC09 ngày 25/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai là vật thuộc Nhà nước cấm tàng trữ nên căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự;

- Tuyên bố bị cáo Trương Nguyễn Phú H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Xử phạt bị cáo Trương Nguyễn Phú H 08 (tám) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự;

- Tuyên bố bị cáo Trương Nguyễn Phú H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt bị cáo Trương Nguyễn Phú H 01 (một) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” - Căn cứ Điều 55 Bộ luật hình sự: Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo Trương Nguyễn Phú H phải chấp hành hình phạt chung của hai tội là 01 (một) năm 08 (tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/6/2021.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: Số ma túy còn lại sau giám định được chứa trong 01 phong bì niêm phong số: 1327/KLGĐ-PC09 ngày 25/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai. (Vật chứng nêu trên đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trảng Bom theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 06/8/2021) 3. Về án phí hình sự: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Trương Nguyễn Phú H phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng bị hại anh Trương Phú Q vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 161/2021/HS-ST

Số hiệu:161/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trảng Bom - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về