Bản án về tội trộm cắp tài sản số 156/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ KONTUM, TỈNH KONTUM

BẢN ÁN 156/2023/HS-ST NGÀY 04/12/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 04/12/2023, tại trụ sở, Toà án nhân dân thành phố Kon Tum - tỉnh Kon Tum, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 147/2023/TLST - HS ngày 07/11/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 155/2023/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn N (Tên gọi khác: Không có), sinh năm 2004 tại Kon Tum; Nơi thường trú: Thôn N, xã I, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ văn hóa: 0/12, dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn Ng (đã chết) và bà Đào Thị S, sinh năm 1982; bị cáo là con duy nhất trong gia đình; tiền án: không; tiền sự: Có 01 tiền sự. Ngày 21/6/2023, bị Công an phường Lê Lợi – thành phố Kon Tum xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản. Nhân thân xấu.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/9/2023 đến nay có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Bà Nguyễn Thị A sinh năm 1971.

Trú tại: Tổ 10, phường Q, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 30 ngày 31/8/2023, Nguyễn Văn N đang ở phòng trọ của mình thì nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Lúc này, N đi bộ đến Trường mầm non Hoa Sen, thôn Đ, xã C, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum quan sát thấy không có người trông coi nên trèo tường vào bên trong. Khi đột nhập vào bên trong, Nguyễn Văn N đi đến một phòng học lấy 01 (một) cái búa bằng kim loại, cán màu đen, 01 (một) cái kìm bằng kim loại, cán màu đỏ đen và 01 (một) thanh kim loại, màu trắng, cong chữ “V” để làm công cụ cạy khóa cửa. Thấy phòng văn thư do bà Nguyễn Thị A (Hiệu trưởng trường mầm non Hoa Sen) quản lý khóa cửa nên N dùng công cụ vừa lấy được cạy mở ổ khóa và đột nhập vào trong lấy trộm tài sản gồm: số tiền 700.000 (bảy trăm nghìn) đồng; 01 (một) ấm đun nước, màu bạc, nhãn hiệu Lock & Lock; 01 (một) loa Bluetooth, màu đỏ, nhãn hiệu Mozard; 01 (một) bộ bút trình chiếu, nhãn hiệu Arigato; 01 (một) máy đo nhiệt độ, nhãn hiệu Microlife; 01 (một) hộp bút lông bảng, nhãn hiệu WB-03, gồm 10 bút; 01 (một) hộp bút bi, nhãn hiệu Matixs, gồm 20 bút;

01 (một) ổ cứng nhãn hiệu mixie 256GB. Sau khi trộm cắp được tài sản, N mang về cất giấu tại phòng trọ, địa chỉ thôn Đ, xã C, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum. Đối với số tiền 700.000 (bảy trăm nghìn) đồng trộm cắp được, N đã sử dụng chi tiêu cá nhân còn lại 50.000 (năm mươi nghìn) đồng. Các tài sản trên là đồ dùng cá nhân của bà Nguyễn Thị A đem lên trường để phục vụ công việc. Sáng ngày 01/9/2023, bà A đi làm thì phát hiện mất số tài sản trên nên làm đơn trình báo gửi cơ quan Công an. Đến 11 giờ 00 phút ngày 01/9/2023, Nguyễn Văn N bị Cơ quan Công an phát hiện và bắt giữ, thu giữ tại nơi ở của bị cáo số tang vật trên.

Tại kết luận định giá số: 88/KL-HĐ ngày 06/9/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Kon Tum kết luận tổng giá trị của: 01 (Một) ấm đun nước, màu bạc, nhãn hiệu Lock & Lock, 01 (Một) loa Bluetooth, màu đỏ, nhãn hiệu Mozard, 01 (Một) bộ bút trình chiếu, nhãn hiệu Arigato, 01 (Một) máy đo nhiệt độ, nhãn hiệu Microlife, 01 (Một) hộp bút lông bảng, nhãn hiệu WB-03, gồm 10 bút, 01 (Một) hộp bút bi, nhãn hiệu Matixs, gồm 20 bút, 01 (Một) ổ cứng nhãn hiệu mixie 256GB có giá trị tại thời điểm bị chiếm đoạt là: 2.378.000 (Hai triệu ba tram bảy mươi tám nghìn) đồng.

Vật chứng vụ án: Trong quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Kon Tum đã xử lý các vật chứng như sau:

Trả lại cho bị hại - bà Nguyễn Thị A tài sản là: số tiền 50.000 (Năm mươi nghìn) đồng; 01 (Một) ấm đun nước, màu bạc, nhãn hiệu Lock & Lock; 01 (Một) loa Bluetooth, màu đỏ, nhãn hiệu Mozard; 01 (Một) bộ bút trình chiếu, nhãn hiệu Arigato; 01 (Một) máy đo nhiệt độ, nhẫn hiệu Microlife; 01 (Một) hộp bút lông bảng, nhãn hiệu WB-03, gồm 10 bút; 01 (Một) hộp bút bi, nhãn hiệu Matixs, gồm 20 bút;

01 (Một) ổ cứng nhãn hiệu mixie 256GB; 01 (Một) thanh kim loại, màu trắng, cong chữ “V”, một cạnh dài 65 cm, một cạnh dài 77 cm; 01 (Một) ở khóa kim loại, màu bạc, có chữ “huyhoang”; 01 (Một) cái búa bằng kim loại, dài 24 cm, cán màu đen;

01 (Một) cái kìm bằng kim loại, dài 16 cm, cán màu đỏ đen, có chữ “unity”.

* Về phần dân sự: Bà Nguyễn Thị A đã nhận lại tài sản bị trộm cắp và không có yêu cầu gì về dân sự Ý kiến của Viện Kiểm sát:

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Kon Tum giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn N phạm tội “Trộm cắp tài sản”; áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm h, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N từ 06 tháng đến 09 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam.

Về xử lý vật chứng của vụ án: Cơ quan Cảnh sát điều tra đã xác định được chủ sở hữu hợp pháp và trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là bà Nguyễn Thị A tài sản là: số tiền 50.000 (Năm mươi nghìn) đồng; 01 (Một) ấm đun nước, màu bạc, nhãn hiệu Lock & Lock; 01 (Một) loa Bluetooth, màu đỏ, nhãn hiệu Mozard; 01 (Một) bộ bút trình chiếu, nhãn hiệu Arigato; 01 (Một) máy đo nhiệt độ, nhẫn hiệu Microlife; 01 (Một) hộp bút lông bảng, nhãn hiệu WB-03, gồm 10 bút; 01 (Một) hộp bút bi, nhãn hiệu Matixs, gồm 20 bút; 01 (Một) ổ cứng nhãn hiệu mixie 256GB; 01 (Một) thanh kim loại, màu trắng, cong chữ “V”, một cạnh dài 65 cm, một cạnh dài 77 cm; 01 (Một) ở khóa kim loại, màu bạc, có chữ “huyhoang”; 01 (Một) cái búa bằng kim loại, dài 24 cm, cán màu đen; 01 (Một) cái kìm bằng kim loại, dài 16 cm, cán màu đỏ đen, có chữ “unity”. Việc trả lại vật chứng như trên là đúng quy định nên không xem xét.

Về phần dân sự: Bà Nguyễn Thị A đã nhận lại tài sản bị trộm cắp và không có yêu cầu gì về dân sự, nên đề nghị không xem xét;

Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, không có ý kiến tranh luận với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Bị hại có đơn xin xét xử vắng mặt, có ý kiến bằng lời khai và văn bản không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại về dân sự, không có ý kiến về hình phạt đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Kon Tum, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Kon Tum, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng quy định của pháp luật.

Bị hại có đơn xin xét xử vắng mặt. Xét thấy: Tại giai đoạn điều tra, bị hại đã có lời khai tại hồ sơ vụ án và đã nhận lại tài sản, không yêu cầu gì thêm. Sự vắng mặt của bị hại không ảnh hưởng đến việc xét xử, vì vậy, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 292 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi bị cáo bị truy tố:

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Văn N đã khai nhận toàn bộ quá trình phạm tội như cáo trạng truy tố. Hội đồng xét xử xét thấy: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại và các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở xác định:

Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 31/8/2023, tại Trường mầm non Hoa Sen, thôn Đ, xã C, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum, Nguyễn Văn N đã lén lút thực hiện hành vi trộm cắp tài sản là số tiền 700.000 (Bảy trăm nghìn) đồng, 01 (Một) ấm đun nước, màu bạc, nhãn hiệu Lock & Lock, 01 (Một) loa Bluetooth, màu đỏ, nhãn hiệu Mozard, 01 (Một) bộ bút trình chiếu, nhãn hiệu Arigato, 01 (Một) máy đo nhiệt độ, nhãn hiệu Microlife, 01 (Một) hộp bút lông bảng, nhãn hiệu WB-03, gồm 10 bút, 01 (Một) hộp bút bi, nhãn hiệu Matixs, gồm 20 bút, 01 (Một) ổ cứng nhãn hiệu mixie 256GB của bà Nguyễn Thị A. Tổng giá trị tài sản tại thời điểm bị chiếm đoạt là 3.078.000 (Ba triệu, không trăm bảy mươi tám nghìn) đồng, mục đích bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Hành vi của bị cáo đã đủ cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự hiện hành. Cáo trạng số 147/CT-VKSTPKT ngày 06/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum đã truy tố bị cáo về tội danh và điều luật như trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Xét thấy: Hành vi của bị cáo xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an trên địa bàn và gây ra tâm lý bất an trong quần chúng nhân dân nên cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội để răn đe và phòng ngừa chung.

[4] Xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, Hội đồng xét xử thấy: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; tài sản trộm cắp đã được thu hồi, trả lại gần như đầy đủ cho bị hại nên được xem là phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn. Do đó, cần áp dụng các quy định tại các điểm i,h,s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự hiện hành để giảm một phần trách nhiệm cho bị cáo.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào. Tuy nhiên, bị cáo có nhân thân xấu, đã có 01 tiền sự về tội trộm cắp tài sản. Đây là yếu tố để Hội đồng xét xử đánh giá ý thức pháp luật và khả năng cải tạo của bị cáo khi lượng hình.

[6] Sau khi đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo như đã phân tích ở trên, Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới đủ điều kiện để cải tạo, giáo dục bị cáo, đồng thời, để răn đe và phòng ngừa chung.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Đối với số tiền 650.000 đồng bị cáo trộm cắp của bị hại và đã tiêu xài hết. Bị cáo chưa trả cho bị hại nhưng bị hại không có yêu cầu gì về số tiền này cũng như trách nhiệm dân sự của bị cáo nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Về xử lý vật chứng:

Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại cho bị hại các tài sản bị mất là: tiền mặt 50.000 (Năm mươi nghìn) đồng; 01 (Một) ấm đun nước, màu bạc, nhãn hiệu Lock & Lock; 01 (Một) loa Bluetooth, màu đỏ, nhãn hiệu Mozard; 01 (Một) bộ bút trình chiếu, nhãn hiệu Arigato; 01 (Một) máy đo nhiệt độ, nhẫn hiệu Microlife; 01 (Một) hộp bút lông bảng, nhãn hiệu WB-03, gồm 10 bút; 01 (Một) hộp bút bi, nhãn hiệu Matixs, gồm 20 bút; 01 (Một) ổ cứng nhãn hiệu mixie 256GB; 01 (Một) thanh kim loại, màu trắng, cong chữ “V”, một cạnh dài 65 cm, một cạnh dài 77 cm; 01 (Một) ở khóa kim loại, màu bạc, có chữ “huyhoang”; 01 (Một) cái búa bằng kim loại, dài 24 cm, cán màu đen; 01 (Một) cái kìm bằng kim loại, dài 16 cm, cán màu đỏ đen, có chữ “unity”. Việc giao trả này là đúng quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[10] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm h,i,s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung 2017;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N 07 (bảy) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 01/9/2023.

2.Về án phí:

Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 – Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về mức miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Bị cáo Nguyễn Văn N phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

3. Căn cứ các Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án; bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

71
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 156/2023/HS-ST

Số hiệu:156/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Kon Tum - Kon Tum
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về