Bản án về tội trộm cắp tài sản số 155/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN G, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 155/2021/HS-ST NGÀY 25/11/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 11 năm 2021 tại Tòa án nhân dân quận G, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 167/2021/TLST-HS ngày 16 tháng 9 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 226/2021/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 11 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Đoàn Minh T, sinh năm: 1991, tại: Thành phố Hồ Chí Minh; hộ khẩu thường trú: 24/5 Đường B, Khu phố N, phường T, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 04/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đoàn Minh T và bà Phan Thị T; chưa có vợ con; nhân thân: Ngày 17/02/2012, Tòa án nhân dân quận T, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”; tiền sự: Ngày 24/12/2019, Tòa án nhân dân quận T, Thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 18 tháng, ngày 06/3/2021 chấp hành xong; tiền án: Ngày 27/12/2018, Tòa án nhân dân quận T, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 10 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; tạm giữ, tạm giam ngày: 14/5/2021; (Có mặt).

2. Phan Huy T, sinh năm: 1992, tại: Thành phố Hồ Chí Minh; hộ khẩu thường trú: 1A3 đường C , Phường H, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Huy P và bà Lê Thị Kim H; có vợ tên Nguyễn Thị Kiều T và 01 con; nhân thân: Ngày 31/10/2012, Tòa án nhân dân quận B, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”; tiền sự: Ngày 06/9/2019, Tòa án nhân dân quận T, Thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 21 tháng, ngày 16/02/2021 chấp hành xong; tiền án: không; tạm giữ, tạm giam ngày: 14/5/2021; (Có mặt).

Bị hại: Bà Nguyễn Thị Lan P, sinh năm 1983; địa chỉ: 193B đường B, phường L, quận H, Thành phố Hà Nội; chỗ ở: 43/1 đường L, Phường B, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh; (Vắng mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị Ngọc D, sinh năm 1976; HKTT: Khu phố 2, Phường B, thành phố T, tỉnh Tây Ninh; (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 01 giờ 00 phút ngày 14/5/2021, Đoàn Minh T gọi điện thoại rủ Phan Huy T đi trộm cắp tài sản, T đồng ý. Huy T sử dụng xe máy hiệu Vario (đã thay tem thành Click) biển số 59L2-953.57 qua đón Minh T tại 60/21/23 đường số 4, KP 5, phường Trường Thọ, Thành phố Thủ Đức, khi đi Minh T mang theo đoản kim loại, dụng cụ mở ổ khóa để thực hiện hành vi phạm tội. Xuất phát Huy T chở Minh T bằng xe máy biển số 59L2-953.57 đi qua địa bàn quận G, dạo quanh nhiều tuyến đường tìm tài sản sơ hở để chiếm đoạt tài sản. Khi cả hai chạy đến đầu hẻm 43 đường L, Phường B, quận G thì Minh T nói Huy T dừng xe đứng phía ngoài cảnh giới còn Minh T đi bộ vào bên trong, đến trước nhà 43/1 đường L, Phường B, quận G phát hiện bên trong sân nhà có dựng một xe máy hiệu Honda Vision biển số 70B1-809.19, không người trông coi. Minh T sử dụng bộ mở khóa, bẻ mở ổ khóa cổng rồi đột nhập vào bên trong, đẩy lùi xe máy Honda Vision biển số 70 B1809.19 ra ngoài cổng. Lúc này, chị Nguyễn Thị Lan P, sinh năm: 1983 phát hiện cửa cổng đã bị mở và phát hiện đối tượng Đoàn Minh T đang dắt xe của mình nên tri hô. Minh T đẩy xe máy Honda Vision biển số 70B1-809.19 đi được khoảng 15 mét thì bị người dân cùng lực lượng tuần tra Công an quận G bắt quả tang cùng với Phan Huy T đang đứng cảnh giới đưa về trụ sở lập biên bản phạm tội quả tang.

Tại cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận G, Đoàn Minh T và Phan Huy T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Vật chứng thu giữ:

- 01 xe máy hiệu Honda Vision biển số 70B1-809.19, số máy: JF66E0848672, số khung: RLHJF5812GY819018. Tại kết luận định giá tài sản số 150/KL-HĐĐGTS ngày 20/05/2021 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong Tố tụng hình sự cấp quận – UBND quận G kết luận 01 xe mô tô hai bánh Honda Vision, biển số 70B1-809.19, số máy: JF66E0848672, số khung RLHJF5812GY819018, đã qua sử dụng tại thời điểm 14/05/2021 là 24.166.667 đồng. Qua xác minh chiếc xe trên do chị Nguyễn Thị Ngọc D, sinh năm 1976, HKTT: Khu phố 2, Phường B, thành phố T, tỉnh Tây Ninh làm chủ sở hữu, chị D có cho chị Nguyễn Thị Lan P mượn xe máy trên. Cơ quan điều tra đã xử lý vật chứng trả lại chiếc xe trên cho chị D.

- Thu giữ của Minh T: 01 điện thoại di động hiệu Nokia, 06 mũi đoản kim loại, 02 chìa mồi phá ổ khóa nhà, 01 nam châm mở khóa từ, 01 chìa khóa mồi xe máy, 01 cán đoản chữ L, 01 ổ khóa của hiệu Zoro Usa Standard, 01 áo khoác màu đen, 01 nón bảo hiểm Grab Bike.

- Thu giữ của Huy T: 01 điện thoại di động Iphone 7 Plus; 01 xe máy hiệu Honda Vario (đã thay tem Click) biển số 59L2-953.57. Qua xác minh chiếc xe máy trên do Phan Huy T đứng tên chủ sở hữu.

Cơ quan điều tra đã nhập kho vật chứng theo Lệnh nhập kho vật chứng số 122 ngày 03/06/2021 và Phiếu nhập kho số 87 ngày 03/06/2021.

Tại bản cáo trạng số 163/CT-VKS, ngày 10/9/2021 của Viện kiểm sát nhân dân quận G đã truy tố Đoàn Minh T, Phan Huy T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà Đại diện Viện kiểm sát sau khi luận tội và đưa ra quan điểm xét xử đã đề nghị:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung 2017;

- Xử phạt bị cáo Đoàn Minh T từ 02 năm đến 03 năm tù.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung 2017;

- Xử phạt bị cáo Phan Huy T từ 01 năm 6 tháng đến 02 năm 6 tháng tù.

- Miễn phạt bổ sung cho các bị cáo.

Áp dụng Điều 46; Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung 2017 và khoản 1, điểm a, c khoản 2, khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia; 01 điện thoại di động Iphone 7 Plus; 01 xe máy hiệu Honda Vario (đã thay tem Click) biển số 59L2-953.57.

- Tịch thu tiêu hủy: 06 mũi đoản kim loại, 02 chìa mồi phá ổ khóa nhà, 01 nam châm mở khóa từ,01 chìa khóa mồi xe máy, 01 cán đoản chữ L, 01 ổ khóa của hiệu Zoro Usa Standard.

- Trả lại cho bị cáo Đoàn Minh T 01 áo khoác màu đen, 01 nón bảo hiểm Grab Bike.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên toà hôm nay, sau khi Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận G công bố bản cáo trạng thì Đoàn Minh T và Phan Huy T đã thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

Đối chiếu lời khai của các bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị hại, phù hợp với kết luận điều tra của cơ quan Công an quận G, với bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận G và với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát trong quá trình Điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng.

Do đó, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng hành vi của Đoàn Minh T và Phan Huy T đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung 2017.

[2] Lợi dụng sự sơ hở mất cảnh giác của bị hại, các bị cáo đã thực hiện hành vi lén lút lấy trộm tài sản, hành vi của các bị cáo đã xâm hại đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được Pháp luật và Nhà nước bảo hộ. Mặt khác, còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an xã hội và tác động xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Chỉ vì muốn tiêu xài phục vụ cho những nhu cầu cá nhân của mình mà không phải thông qua lao động chân chính, các bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, việc xử lý các bị cáo bằng biện pháp hình sự là hết sức cần thiết và đúng quy định của pháp luật.

Xét nhân thân bị cáo Đoàn Minh T đã có 01 tiền sự về áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và 01 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích, nay lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội thể hiện ý thức bị cáo rất xem thường pháp luật và lần phạm tội này là tái phạm, là tình tiết tăng nặng được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Nhân thân bị cáo Phan Huy T trước đây cũng đã từng bị xử lý hình sự về tội “Trộm cắp tài sản” (đã xóa án) và 01 tiền sự về áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Vì vậy, cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian dài nhằm giúp cho các bị cáo có điều kiện học tập cải tạo lại mình sau này biết tôn trọng pháp luật và tôn trọng tài sản của người khác.

Đây là vụ án mang tính đồng phạm nhưng thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn, trong đó bị cáo Minh T là người khởi xướng rủ bị cáo Huy T đi trộm cắp tài sản và là người trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội; bị cáo Trung với vai trò cảnh giới, do đó các bị cáo phải chịu mức hình phạt tương xứng với mức độ phạm tội của mình.

[3] Tuy nhiên, khi lượng hình cần xem xét cho các bị cáo một số tình tiết: Tại Cơ quan điều tra và qua diễn biến phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã thật thà khai báo thành khẩn nhận tội và tỏ ra ăn năn hối cải, tài sản đã được thu hồi trả lại cho bị hại, các bị cáo thuộc thành phần lao động nghèo để giảm nhẹ một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

[4] Về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự, xét tính chất vụ án và hoàn cảnh của các bị cáo Hội đồng xét xử quyết định miễn áp dụng hình phạt bổ sung cho các bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự:

Tại phiên tòa hôm nay chị Nguyễn Thị Lan P vắng mặt, nhưng qua hồ sơ thể hiện chị Nguyễn Thị Ngọc D là chủ sở hữu chiếc xe (chị D có cho chị Nguyễn Thị Lan P mượn xe máy) đã nhận lại được tài sản bị chiếm đoạt là 01 xe máy hiệu Honda Vision biển số 70B1-809.19 nên chị P hiện không thắc mắc hay khiếu nại gì nên tại phiên tòa hôm nay Hội đồng xét xử không đưa ra xem xét lại.

[6] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 xe máy hiệu Honda Vision biển số 70B1-809.19, số máy: JF66E0848672, số khung: RLHJF5812GY819018. Qua xác minh chiếc xe trên do chị Nguyễn Thị Ngọc D, sinh năm 1976, HKTT: Khu phố 2, Phường B, thành phố T, tỉnh Tây Ninh làm chủ sở hữu, chị D có cho chị Nguyễn Thị Lan P mượn xe máy trên. Cơ quan điều tra đã xử lý vật chứng trả lại chiếc xe trên cho chị D. Hội đồng xét xử nhận thấy việc trả lại tài sản đó là đúng quy định của pháp luật và không ảnh hưởng đến nội dung vụ án nên tại phiên tòa hôm nay không đưa ra xem xét lại.

- Đối với 06 mũi đoản kim loại, 02 chìa mồi phá ổ khóa nhà, 01 nam châm mở khóa từ, 01 chìa khóa mồi xe máy, 01 cán đoản chữ L, 01 ổ khóa của hiệu Zoro Usa Standard, 01 áo khoác màu đen, 01 nón bảo hiểm Grab Bike là phương tiện, công cụ các bị cáo sử dụng để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, không còn giá trị sử dụng nên Hội đồng xét xử quyết định tịch thu, tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia thu giữ của Minh T; 01 điện thoại di động Iphone 7 Plus thu giữ của Huy T; 01 xe máy hiệu Honda Vario (đã thay tem Click) biển số 59L2-953.57 qua xác minh chiếc xe máy trên do Phan Huy T đứng tên chủ sở hữu, các bị cáo sử dụng điện thoại và xe máy trên làm phương tiện để đi trộm cắp tài sản nên Hội đồng xét xử quyết định tịch thu, sung quỹ nhà nước.

[8] Về án phí: Bị cáo Đoàn Minh T và Phan Huy T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Đoàn Minh T, Phan Huy T phạm tội “Trộm cắp Tài sản”;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung 2017;

Xử phạt bị cáo Đoàn Minh T 02 (Hai) năm 03 (Ba) tháng tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày tạm giữ, tạm giam 14/5/2021.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung 2017;

Xử phạt bị cáo Phan Huy T 01 (Một) năm 6 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày tạm giữ, tạm giam 14/5/2021.

Áp dụng Điều 46; Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung 2017 và khoản 1, điểm a, c khoản 2, khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- Tịch thu tiêu hủy: 6 mũi đoản phá khóa xe, 02 chìa mồi phá khóa nhà, 01 cục nam châm phá khóa từ, 01 chìa khóa mồi xe máy, 01 đầu đoản hình chữ L dài khoảng 15cm, 01 ổ khóa của hiệu Zoro Usa Stardard, 01 áo khoác màu đen tay dài, 01 nón bảo hiểm Grab Bike màu xanh kẻ sọc trắng.

- Tịch thu sung quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, số Imei 1: 355812092243079, số Imei 2: 355813092243077; 01 điện thoại Iphone 7 Plus màu đen, số Imei: 359176073648524; 01 xe máy hiệu Honda Vario (đã thay tem Click) biển số 59L2-953.57, đã qua sử dụng, số khung: MH1KF4114JK137836, số máy: KF41E1138591.

(Theo phiếu nhập kho vật chứng số 87/PNK, ngày 03/6/2021 của Công an quận Gò Vấp)

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và Lệ phí, Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án;

Mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Bằng chữ: Hai trăm nghìn đồng).

Các bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày được tính kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày niêm yết.

Căn cứ Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008;

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 155/2021/HS-ST

Số hiệu:155/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về