Bản án về tội trộm cắp tài sản số 15/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 15/2022/HS-ST NGÀY 22/06/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện A, tỉnh Bạc Liêu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 15/2022/TLST-HS ngày 11 tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2022/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo:

Tiền Út B (tên gọi khác: Không có), sinh năm 1994 tại Bạc Liêu. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Ấp C, thị trấn D, huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu; nghề nghiêp: Không có; trình độ văn hoá (học vấn): Không đi học; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tiền Văn F, sinh năm 1942 (đã chết) và bà Danh Thị H, sinh năm 1955 (còn sống); vợ, con: Chưa có; anh chị em ruột có 04 người, lớn nhất là bị cáo, nhỏ nhất sinh năm 2003; tiền án: có 01 tiền án, ngày 22/9/2020 bị Tòa án nhân dân huyện I, tỉnh Bạc Liêu xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 20/11/2015 bị Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo đang bị tạm giam từ ngày 22/3/2022 tại Nhà tạm giữ Công an huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu đến nay. (Có mặt).

- Bị hại:

+ Anh Hồng Minh J, sinh năm 1996. Địa chỉ: Ấp K, xã L, huyện A, tỉnh Bạc Liêu (Vắng mặt).

+ Bà Nguyễn Thị Mỹ M, sinh năm 1981. Địa chỉ: Ấp K, xã L, huyện A, tỉnh Bạc Liêu.

Người đại diện hợp pháp theo ủy quyền của bị hại Nguyễn Thị Mỹ M là ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1979. Địa chỉ: Ấp K, xã L, huyện A, tỉnh Bạc Liêu. (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Từ tháng 11/2021 đến tháng 01/2022, Tiền Út B khai nhận cùng với đồng phạm đã nhiều lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của người khác trên địa bàn ấp K, xã L, huyện A, tỉnh Bạc Liêu; cụ thể như sau:

Lần thứ nhất: Vào khoảng 23 giờ ngày 08/11/2021, Út B đang ở nhà tại ấp C, thị trấn D, huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu thì Nguyễn Minh O, cư trú ấp C, thị trấn D, huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu điểu khiển xe mô tô đến rủ Út B đi trộm cắp tài sản. Út B đồng ý và đi theo O đến nhà trọ của O, một lúc sau thì O chở Trương Văn P, cư trú khóm Q, phường R, thị xã S, tỉnh Bạc Liêu đến. Khoảng hơn 01 giờ sáng ngày 09/11/2021, O điều khiển xe máy sirius của P, chở Út B ngồi giữa, P ngồi sau theo tuyến Quốc Lộ 1A tìm tài sản để lấy trộm. Lúc đi, Út B cầm theo một cái túi, dạng ba lô đựng một cây kiềm cộng lực cắt sắt. Khi đến khu vực gần cầu K thuộc ấp K, xã L, huyện A, tỉnh Bạc Liêu, nhìn thấy trước sân nhà của anh Hồng Minh J dựng 03 chiếc xe mô tô, có khóa cổng hàng rào, không người trông coi, nên P nói với O quay xe lại để lấy trộm. Cả 03 người đồng ý, O điều khiển xe đến trước nhà anh J, Út B và P xuống xe đi vào, O điều khiển xe đến trước trường học đối diện để canh đường. P dùng cây kiềm cộng lực cắt ổ khoá cổng rào, đi vào trong sân lấy trộm xe máy hiệu Novou dựng sát tường dắt ra ngoài chỗ O; Út B vào sau và lấy trộm chiếc xe Exciter 150 trên hàng ba và dắt ra chỗ O. Khi ra chỗ O đang đứng, P lấy chiếc xe Exciter và đưa chiếc xe Nouvo cho Út B. Do cả 02 xe máy không có khoá cổ xe, nên O dùng xe Sirius đẩy xe Exciter do P điều khiển về nhà Út B trước, Út B dắt xe Nouvo đi bộ phía sau. Sau đó, O quay lại đẩy xe Nouvo do Út B điều khiển về nhà. Để tránh bị phát hiện, P tháo biển kiểm soát 94K1-xxxxx của xe Exciter gắn vào xe Nouvo, biển kiểm soát xe Nouvo thì P đem bỏ và tháo dây điện của hai xe để khởi động xe. P điều khiển xe Exciter về nhà P ở R, thị xã S, tỉnh Bạc Liêu; O thì điều khiển xe sirius chở Út B theo sau. P giấu xe Exciter ở bên ngoài đám cỏ gần nhà P; xe Nouvo bị hư không khởi động được, nên để ở nhà Út B. Khoảng 05 giờ sáng ngày 09/11/2021, anh J phát hiện xe bị mất trộm nên trình báo với cơ quan Công an xã L, huyện A tài sản bị mất gồm: Một chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại Nouvo, biển kiểm soát 94N1-xxxx, màu sơn vàng, số máy 5P11136028, số khung P1109Y136028; Một chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại Exciter, biển kiểm soát 94K1-xxxxx, màu sơn đen, số máy G3D4E771311, số khung 1010JY006184.

Quá trình xác minh, Út B khai nhận toàn bộ hành vi trên của mình và giao nộp: Một chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại Nouvo, gắn biển kiểm soát 94K1-xxxx, số máy 5P11136028, số khung P1109Y136028 (cất giấu tại khu vực mộ gần nhà Út B), một túi đựng một cây kiềm cộng lực cắt sắt (thu tại tủ phía nhà trước của Út B), một cái áo mà Út B mặc khi đi trộm cắp. Đến khoảng 10 giờ cùng ngày, Công an phường R, thị xã S, tỉnh Bạc Liêu đã thu giữ tại khu vực đất trống thuộc khóm 01, phường R, thị xã S, tỉnh Bạc Liêu một xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại Exciter, không biển kiểm soát, màu đen, số máy G3D4E771311, số khung 1010JY006184.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 22/KL-HĐĐGTS ngày 10 tháng 12 năm 2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện A, tỉnh Bạc Liêu kết luận:

- 01 (Một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại Nouvo, biển kiểm soát 94N1- xxxx, số máy 5P11-136028, số khung P1109Y136028, đã qua sử dụng, có giá trị trong ngày 09/11/2021 là 6.000.000 đồng.

- 01 (Một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại Exciter, biển kiểm soát 94K1-xxxxx, số máy G3D4E771211, số khung 1010JY006184, đã qua sử dụng, có giá trị trong ngày 09/11/2021 là 18.000.000 đồng.

Tổng giá trị tài sản Út B trộm cắp tài sản của người khác trong ngày 09/11/2021 là 24.000.000 đồng.

- Lần thứ hai: Vào khoảng 01 giờ ngày 27/01/2022, Út B chơi game bắn cá tại tiệm game Ngọc T trên địa bàn thành phố U. Tại đây, Út B quen với một người thanh niên chơi game bắn cá chung (không biết rõ tên, tuổi, địa chỉ), khi chơi game được một lúc và đi ra ngoài, thì người thanh niên rủ Út B đi tìm tài sản của người khác để lấy trộm. Út B đồng ý và điều khiển xe mô tô kiểu dáng WAVE (không nhớ biển số kiểm soát) của người thanh niên chở người này đi tìm tài sản để trộm cắp. Út B điều khiển xe theo tuyến Quốc Lộ IA về hướng huyện Đ, khi đi đến cầu K, Út B rẽ phải vào đường chợ K, xã L và đi thêm một đoạn khoảng 200 mét, nhìn thấy chiếc xe Taurus màu đen, biển kiểm soát 94C1-xxxx của bà Nguyễn Thị Mỹ M thuộc ấp K, xã L, huyện A, tỉnh Bạc Liêu, dựng trước nhà và không ai trông coi. Út B đi đến lấy trộm xe và mang về nhà mình tại ấp C, thị trấn D, tỉnh Bạc Liêu để cất giấu. Người thanh niên đi cùng tháo bửng xe, vè xe và điều khiển xe vừa trộm được đi mua ma tuý về sử dụng. Sáng ngày hôm sau, người thanh niên đi đâu không rõ, Út B chỉ nhìn thấy chiếc xe mô tô Taurus dựng trước nhà và đã được thay biển kiểm soát 94H4-xxxx. Ngày 29/01/2022, khi lực lượng Công an xã L, huyện A, tỉnh Bạc Liêu mời làm việc, Út B đã giao nộp xe cho cơ quan Công an. Qua kiểm tra, xe mô tô loại Taurus màu đen, gắn biển số 94H4-xxxx, số máy 16S1003132, số khung 6S108Y003149 là xe của bà Nguyễn Thị Mỹ M, biển kiểm soát 94C1-xxxx.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 07/KL-HĐĐGTS ngày 25/02/2022 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện A, tỉnh Bạc Liêu kết luận: Xe mô tô biển kiểm soát 94C1-xxxx, loại Taurus màu đen, số máy 16S1003132, số khung 6S108Y003149 tại thời điểm ngày 27/01/2022 giá trị là 2.000.000 đồng.

Như vậy, tổng giá trị tài sản Út B trộm cắp tài sản đối với 02 (hai) nêu trên là:

24.000.000 đồng + 2.000.000 đồng = 26.000.000 đồng.

Về vật chứng của vụ án: Hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện A đang quản lý 01 (một) áo sơ mi tay dài sọc ca rô; 01 (một) cây kiềm cộng lực cắt sắt; 01 (một) cái ba lô hình rằn ri, màu đen đỏ, vàng đồng; 01 (một) biển kiểm soát 94H4-xxxx do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện A đã thu giữ.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện A đã giao trả cho bị hại J 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại Nouvo, biển kiểm soát 94N1- xxxx, số máy 5P11-136028, số khung P1109Y136028, đã qua sử dụng; 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại Exciter, biển kiểm soát 94K1-xxxxx, số máy G3D4E771211, số khung 1010JY006184, đã qua sử dụng, 01 (một) ổ khóa màu đen, vàng đồng và giao trả cho bị hại M 01 (một) chiếc xe mô tô, biển kiểm soát 94C1-xxxx, loại Taurus màu đen, số máy 16S1003132, số khung 6S108Y003149, đã qua sử dụng do Út B lấy trộm.

Về trách nhiệm dân sự, anh J và bà M đã nhận lại tài sản và không đặt ra yêu cầu gì khác đối với bị cáo Út B nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

Bản cáo trạng số 15/CT-VKS ngày 09 tháng 5 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện A, tỉnh Bạc Liêu đã truy tố bị cáo Tiền Út B về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) với tổng số tiền chiếm đoạt là 26.000.000 đồng.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện A giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Tiền Út B theo như Cáo trạng đã truy tố và đề nghị: Tuyên bố bị cáo Tiền Út B phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm g, h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Xử phạt bị cáo Tiền Út B từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù. Về trách nhiệm dân sự, anh J và bà M đã nhận lại tài sản và không đặt ra yêu cầu gì khác về trách nhiệm dân sự nên không đặt ra giải quyết. Về xử lý vật chứng, áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị tịch thu và tiêu hủy 01 (một) áo sơ mi tay dài sọc ca rô; 01 (một) cây kiềm cộng lực cắt sắt; 01 (một) cái ba lô hình rằn ri, màu đen đỏ, vàng đồng; 01 (một) biển kiểm soát 94H4-xxxx. Buộc bị cáo Út B phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Đối với Nguyễn Minh O và Trương Văn P mà bị cáo Út B khai nhận có hành vi trộm cắp tài sản cùng với bị cáo Út B ngày 09/11/2021 tại ấp K, xã L, huyện A, tỉnh Bạc Liêu. Quá trình điều tra vụ án, chưa có căn cứ xác định O và P đồng phạm với bị cáo Út B nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện A, tỉnh Bạc Liêu đã ban hành Quyết định tách hành vi của P và O để tiếp tục thụ lý xác minh giải quyết nguồn tin về tội phạm theo quy định pháp luật là có căn cứ.

Đối với người thanh niên chơi game chung (không rõ họ tên cụ thể), bị cáo Út B khai nhận cùng với bị cáo Út B có hành vi trộm cắp tài sản của bà Nguyễn Thị Mỹ M vào ngày 27/01/2021 tại ấp K, xã L, huyện A, tỉnh Bạc Liêu, nhưng do chưa xác định được họ, tên và địa chỉ cụ thể, không làm việc được nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện A chưa đủ cơ sở để xác minh, điều tra xử lý.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Út B thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng đã truy tố và không có ý kiến tranh luận với Bản luận tội của Viện kiểm sát. Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt khi nói lời nói sau cùng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên và của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Do đó, các hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều đúng quy định.

[2] Về thủ tục tố tụng: Bị hại anh Hồng Minh J đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa. Xét thấy, sự vắng mặt của anh J không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh J theo quy định tại Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[3] Tại phiên tòa, bị cáo Út B thừa nhận hành vi phạm tội phù hợp với lời khai của các bị hại và các tình tiết khác của vụ án nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Lần thứ nhất: Vào khoảng 01 giờ, ngày 09/11/2021, lợi dụng lúc anh J đậu xe mô tô trước cửa nhà, không ai trông coi, bị cáo Út B khai nhận cùng với Nguyễn Minh O (O Lùn) và Trương Văn P đã lén lút trộm cắp 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại Nouvo, biển kiểm soát 94N1- xxxx, số máy 5P11-136028, số khung P1109Y136028 và 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại Exciter, biển kiểm soát 94K1-xxxxx, số máy G3D4E771211, số khung 1010JY006184 của anh J , có giá trị theo định giá là 24.000.000 đồng. Lần thứ hai: Vào khoảng 01 giờ, ngày 27/01/2022, lợi dụng lúc bà M đậu xe mô tô trước cửa nhà, không ai trông coi, bị cáo Út B cùng với người thanh niên chơi game chung (không rõ họ tên cụ thể) đã lén lút trộm cắp 01 (một) chiếc xe mô tô, biển kiểm soát 94C1-xxxx, loại Taurus màu đen, số máy 16S1003132, số khung 6S108Y003149 của bà M, có giá trị theo định giá là 2.000.000 đồng.

[4] Hành vi nêu trên của bị cáo Út B đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Bị cáo Út B thực hiện hành vi phạm tội là người đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác. Do vậy, Hội đồng xét xử kết luận bị cáo Út B phạm tội “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), như Cáo trạng số 15/CT-VKS-HS ngày 09 tháng 5 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện A, tỉnh Bạc Liêu đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[5] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Út B là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, được pháp luật bảo vệ, gây tác động xấu đến tình hình an ninh trật tự của địa phương. Bên cạnh đó, ý thức chấp hành pháp luật của bị cáo Út B là rất kém, bị cáo Út B đã từng bị Tòa án xét xử về tội “Trộm cắp tài sản”, phải chấp hành hình phạt tù, nhưng bị cáo Út B không lấy đó làm bài học rèn luyện, sửa đổi bản thân mà còn tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của người khác. Do vậy, hành vi phạm tội của bị cáo Út B phải bị xử phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo với đời sống xã hội một thời gian nhất định mới đủ răn đe, cải tạo, giáo dục bị cáo chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật và phòng ngừa chung.

[6] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Út B đã nhiều lần (02 lần) thực hiện hành vi trộm cắp chiếc xe môt tô của anh J, bà M và giá trị mỗi chiếc xe mô tô trong một lần trộm cắp đều đã đến mức xử lý về hình sự nên bị cáo Út B phải chịu 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Ngày 22/9/20220, bị cáo Út B bị Tòa án nhân dân huyện I, tỉnh Bạc Liêu xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 29/5/2021, chưa được xóa án tích. Do vậy, lần phạm tội này của bị cáo Út B phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo; đồng thời, tài sản bị cáo trộm cắp đã được bị cáo tự nguyện giao nộp ngay sau khi bị cáo bị bắt và Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện A, tỉnh Bạc Liêu cũng đã giao trả lại cho các bị hại, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 nên Hội đồng xét xử chấp nhận ý kiến của Kiểm sát viên, áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nêu trên để giảm nhẹ một phần hình phạt khi quyết định hình phạt đối với bị cáo Út B.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại anh J và bà M đã nhận lại tài sản do bị cáo Út B trộm cắp và không có yêu cầu gì khác nên không đặt ra xem xét.

[8] Về vật chứng trong vụ án: 01 (một) áo sơ mi tay dài sọc ca rô là của bị cáo Út B mặc lúc thực hiện hành vi phạm tội và bị cáo Út B không yêu cầu được nhận lại; đối với 01 (một) cây kiềm cộng lực cắt sắt; 01 (một) cái ba lô hình rằn ri, màu đen đỏ, vàng đồng; 01 (một) biển kiểm soát 94H4-xxxx được bị cáo Út B dùng vào việc phạm tội nên tịch thu và tiêu hủy.

[9] Án phí: Bị cáo Út B phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

[10] Đối với Nguyễn Minh O và Trương Văn P mà bị cáo Út B khai nhận có hành vi trộm cắp tài sản cùng với bị cáo Út B ngày 09/11/2021 tại ấp K, xã L, huyện A, tỉnh Bạc Liêu. Quá trình điều tra vụ án, chưa có căn cứ xác định O và P đồng phạm với bị cáo Út En nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện A, tỉnh Bạc Liêu đã ban hành Quyết định tách hành vi của P và O để tiếp tục thụ lý xác minh giải quyết nguồn tin về tội phạm theo quy định pháp luật là có căn cứ.

[11] Đối với người thanh niên chơi game chung (không rõ họ tên cụ thể), bị cáo Út B khai nhận cùng với bị cáo Út B có hành vi trộm cắp tài sản của bà M vào ngày 27/01/2021 tại ấp K, xã L, huyện A, tỉnh Bạc Liêu, nhưng do chưa xác định được họ, tên và địa chỉ cụ thể, không làm việc được nên đề nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện A, tỉnh Bạc Liêu tiếp tục điều tra, làm rõ, xử lý sau theo quy định của pháp luật.

[12] Xét đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa về áp dụng điều luật, tình tiết giảm nhB, mức hình phạt, trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng là có căn cứ, phù hợp pháp luật nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Tiền Út B (tên gọi khác: không) phạm tội “Trộm cắp tài  sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; Điều 38, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Tiền Út B 01 (một) năm 08 (tám) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị bắt tạm giam ngày 22 tháng 3 năm 2022.

2. Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) áo sơ mi tay dài sọc ca rô; 01 (một) cây kiềm cộng lực cắt sắt; 01 (một) cái ba lô hình rằn ri, màu đen đỏ, vàng đồng; 01 (một) biển kiểm soát 94H4-xxxx. (Vật chứng nêu trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện A, tỉnh Bạc Liêu đang quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 26/5/2022).

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo Tiền Út B phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Án xử sơ thẩm công khai; bị cáo, người đại diện hợp pháp theo ủy quyền của bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

27
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 15/2022/HS-ST

Số hiệu:15/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hòa Bình - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về