Bản án về tội trộm cắp tài sản số 151/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ Z, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 151/2022/HS-ST NGÀY 18/05/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Z mở phiên tòa công khai, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 102/HSST ngày 05 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 105/2022/QĐXXST - HS ngày 21 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo:

Lê Thành L (Tên gọi khác là Q), sinh năm 1995, tại Khánh Hòa; Nơi cư trú: 14 Hoàng Văn Thụ, phường XH, thành phố Z, tỉnh Khánh Hòa; Nghề nghiệp: không; Trình độ văn hóa: 01/12; Dân tộc kinh; Giới tính nam; Tôn giáo không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Văn Đ và bà Trần Thị Kim Y (Đã chết); Tiền sự: không; Tiền án:

- Bản án số 78/2015/HSST ngày 17 tháng 4 năm 2015 của Tòa án nhân dân thành phố Z, tỉnh Khánh Hòa xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 03 tháng 12 năm 2015. Đã đóng án phí hình sự sơ thẩm.

- Bản án số 129/2017/HSST ngày 05 tháng 7 năm 2017 của Tòa án nhân dân thành phố Z, tỉnh Khánh Hòa xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 30 tháng 01 năm 2019. Đã đóng án phí hình sự sơ thẩm.

Nhân thân:

- Quyết định số 127/QĐ-UB ngày 27 tháng 9 năm 2007 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường XH, thành phố Z về việc: “Áp dụng biện pháp giáo dục tại cấp xã”, thời hạn 06 tháng. Chấp hành xong ngày 31 tháng 3 năm 2008.

- Quyết định số 3460/QĐ-CT-UBND ngày 15 tháng 5 năm 2012 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Z về việc: “Áp dụng biện pháp đưa vào Trường giáo dưỡng”, thời hạn 24 tháng.

- Quyết định số 09/QĐ-TA ngày 04 tháng 4 năm 2017 của Tòa án nhân dân thành phố Z về việc: “Áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc”, thời hạn 24 tháng.

- Bản án số 284/2012/HSST ngày 29 tháng 11 năm 2012 của Tòa án nhân dân thành phố Z, tỉnh Khánh Hòa xử phạt 12 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 15 tháng 6 năm 2014.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 20 tháng 5 năm 2021 cho đến nay.

* Bị hại:

1. Bà Bùi Thị Diệu T, sinh năm 1968; Nơi cư trú: 135 Chung cư B, phường VT, thành phố Z.

2. Anh Nguyễn Quốc P, sinh năm 1989; Nơi cư trú: 71/53 đường 2/4 phường VT, thành phố Z.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Lương Thị P, sinh năm 1967; Nơi cư trú: 39/9 Tân Trang, phường V, thành phố Z.

2. Anh Lê T, sinh năm 1990; Nơi cư trú: Tổ 12 Tây Nam, phường VH, thành phố Z.

* Người làm chứng: Anh Trần Nam H, sinh năm 1989; Nơi cư trú: 39/6 Tân Trang, phường VTh, thành phố Z.

(Tất cả bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng đều vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do cần tiền tiêu dùng cá nhân nên Lê Thành L đã thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Z vào ngày 11/02/2020 và ngày 23/3/2020, cụ thể như sau: Vụ 01: Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 11 tháng 02 năm 2020, Lê Thành L đi bộ đến địa chỉ số 39/9 đường Tân Trang, phường VT, thành phố Z, phát hiện thấy 01 xe máy hiệu Yamaha Sirius, màu đen xám, biển kiểm soát: 79N1-81758 của anh Nguyễn Quốc P đang dựng trong hẻm, chìa khóa đang cắm trên ổ khóa, không có người trông giữ. Lúc này, L nảy sinh ý định lấy trộm xe máy trên, L lén lút đi đến dắt xe máy ra đầu đường, khởi động máy, điều khiển xe máy tẩu thoát. Sau đó, L điều khiển xe máy Yamaha Sirius, màu đen xám, biển kiểm soát: 79N1-81758 chạy về khu vực xóm Gò, phường PH, thành phố Z để cất giấu. Đến khoảng 11 giờ 00 phút ngày 12 tháng 02 năm 2020, L điều khiển xe máy trộm cắp được đi đến khu vực vòng xoay đường V NG, xã VT, thành phố Z thì gặp đối tượng tên Cu Hai (không rõ nhân thân lai lịch) hỏi mua xe máy trên, do cần tiền nên L đã bán xe máy trên cho “Cu Hai” với giá 1.500.000 đồng. Khi bán xe L có nói cho “Cu Hai” biết là xe máy do trộm cắp có được nhưng “Cu Hai” vẫn đồng ý mua với giá 1.500.000 đồng. Sau khi phát hiện bị mất xe máy Yamaha Sirius, màu đen xám, biển kiểm soát: 79N1-81758, anh Nguyễn Quốc P đã đến Công an phường VT trình báo sự việc.

Vào sáng ngày 12 tháng 02 năm 2020, anh Trần Nam H là anh rể của P có nhờ người nam thanh niên tên Bi (không rõ nhân thân lai lịch) tìm giúp xe máy Sirus bị mất trộm. Khoảng 15 giờ 00 phút cùng ngày, Bi gọi điện cho L hỏi có lấy trộm xe máy Yamaha Sirius, màu đen xám, biển kiểm soát: 79N1-81758 không, để Bi xin chuộc lại thì L nói có lấy trộm xe máy nhưng L đã bán cho đối tượng “Cu Hai” với giá 1.500.000 đồng. Sau đó, Bi có đưa cho L số tiền 500.000 đồng để đi chuộc xe máy. L liên lạc gặp “Cu Hai” xin chuộc lại xe máy, Cu Hai đồng ý cho L chuộc lại xe với giá 1.800.000 đồng. Tối cùng ngày, Lộc gọi cho anh H nói xe máy Yamaha Sirius, màu đen xám, biển kiểm soát: 79N1-81758 để ở trước quán cà phê dưới khu đô thị Vĩnh Điềm Trung, xã VH, thành phố Z để anh H đến lấy xe máy về. Sau đó, anh H cùng bà Lương Thị P đi xuống chỗ hẹn lấy xe máy đi về nhà.

Tại biên bản định giá tài sản số: 153/HĐĐG ngày 17/4/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Z kết luận: 01 xe máy hiệu Yamaha Sirius, màu đen, biển kiểm soát: 79N1-81758 có giá trị là 10.335.000 đồng (Mười triệu ba trăm ba mươi lăm nghìn đồng).

Vụ 02: Khoảng 22 giờ 00 phút ngày 23 tháng 3 năm 2020, Lê Thành L đi bộ đến nhà số 135 Chung cư B, phường VT, thành phố Z. Thấy cửa nhà mở, bên trong nhà không có người, L đi vào bên trong nhà phát hiện thấy có 01 điện thoại di động hiệu SamSung Galaxy J7, màu vàng và túi nylon màu trắng bên trong có để 01 ví nữ màu đỏ của bà Bùi Thị Diệu T đang để dưới nền nhà, không có người trông giữ. L đã lén lút lấy trộm điện thoại di động và túi nylon đi ra ngoài rồi tẩu thoát. Sau khi L lấy trộm được số tài sản trên, L đi đến Công viên Sinh Trung, phường VT lục túi nylon tìm tài sản thì thấy trong ví màu đỏ có số tiền 600.000 đồng và 01 thỏi son, 01 hộp phấn trang điểm của phụ nữ. L đã lấy số tiền 600.000 đồng, còn túi nylon, ví nữ màu đỏ, 01 thỏi son và 01 hộp phấn trang điểm vứt lại tại công viên Sinh Trung. Sau đó, Lộc cầm điện thoại di động hiệu SamSung Galaxy J7 màu vàng đi đến cầm thế cho đối tượng tên Tùng (không rõ nhân thân lai lịch) tại khu vực Lầu 7, phường VP, thành phố Z được 1.000.000 đồng (một triệu đồng). Số tiền 600.000 đồng lấy trộm trong ví và 1.000.000 đồng cầm thế điện thoại di động, L đã tiêu dùng cá nhân hết. Sau khi phát hiện bị mất trộm, ông Mai Gia M là chồng của bà Tt đã đến Công an phường VT trình báo sự việc trên.

Tại biên bản định giá tài sản số: 161/HĐĐG ngày 22/4/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Z kết luận: 01 điện thoại SamSung Galaxy J7có giá trị là 2.250.000 đồng (Hai triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng).

Tại công văn số 186/HĐĐG của của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Z từ chối định giá 01 thỏi son, 01 hộp phấn trang điểm và 01 ví nữ màu đỏ do không thể hiện nguồn gốc xuất xứ; chủng loại của tài sản và không có tài liệu chứng từ liên quan. Vì vậy, không đủ điều kiện cần thiết để tiến hành định giá.

Cáo trạng số 98/CT-VKSNT ngày 04 tháng 4 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Z truy tố Lê Thành L về tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Z giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Lời khai nhận của bị cáo Lê Thành L tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và đã được Hội đồng xét xử thẩm vấn công khai. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Lê Thành L từ 03 năm đến 04 năm tù. Về trách nhiệm dân sự; Vật chứng vụ án và án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa, bị hại; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan; người làm chứng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do. Xét thấy, việc vắng mặt của đương sự không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Căn cứ Điều 292, Điều 293 của Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2] Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, thực hành quyền công tố tại phiên tòa đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên cũng như của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên và của các cơ quan tố tụng đã thực hiện là hợp pháp, đúng quy định.

[3] Tại phiên tòa, lời khai nhận của bị cáo hoàn toàn phù hợp lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng cùng các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Trong khoảng thời gian từ ngày 11 tháng 2 năm 2020 đến 23 tháng 3 năm 2020, trên địa bàn thành phố Z, Lê Thành L đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của người khác. Cụ thể:

Vụ 1 : Khoảng 20 giờ 00 phút, ngày 11 tháng 2 năm 2020, tại trước nhà số 39/9 đường TT, phường VT, thành phố Z, Lê Thành L đã có hành vi lén lút trộm cắp 01 xe máy hiệu Yamaha Sirius, màu xám đen, biển kiểm soát 79N1-87158 của anh Nguyễn Quốc P trị giá 10.335.000đồng (Mười triệu ba trăm ba mươi lăm ngàn đồng).

Vụ 2 : Vào khoảng 22 giờ 00 phút ngày 23 tháng 3 năm 2020 tại nhà số 135 chung cư B, phường VT, thành phố Z, Lê Thành L trộm cắp 01 điện thoaị di động hiệu Samsung Galaxy J7 trị giá 2.250.000đồng và 01 túi nylon bên trong có số tiền 600.000đồng, 01 thỏi son, 01 hộp phấn trang điểm, 01 ví nữa màu đỏ của bà Bùi Thị Diệu T.

Tổng giá trị tài sản mà Lê Thành L đã trộm cắp được là: 13.185.000đồng (Mười ba triệu một trăm tám mươi lăm ngàn đồng). Như vậy, hành vi của bị cáo Lê Thành L đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 173 của Bộ luật hình sự. Do đó, Cáo trạng số 98/CT-VKSNT ngày 04 tháng 4 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Z, tỉnh Khánh Hòa đã truy tố là có căn cứ đúng người, đúng tội.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu của công dân; Làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở của người bị hại không quản lý tài sản nên đã lén lút chiếm đoạt tài sản của họ; Hành vi phạm tội của bị cáo thể hiện tính tham lam, tư lợi và xem thường kỷ cương, pháp luật của Nhà nước. Bị cáo có nhân thân xấu, bản thân từ năm 2007 đã bị đưa vào trường giáo dưỡng cũng như bị Tòa án nhân dân các cấp kết án về hành vi chiếm đoạt tài sản nhưng không lấy đó làm bài học để tu dưỡng rèn luyện đạo đức làm ăn lương thiện mà lại tiếp tục phạm tội. Bị cáo đã tái phạm chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do lỗi cố ý nên Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết định khung hình phạt “Tái phạm nguy hiểm” được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Lộc. Ngoài ra, bị cáo đã thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản nên Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội 02 lần trở lên” được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự đối với bị cáo L. Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo nên Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Xét vai trò tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: cần phải xử lý nghiêm khắc, áp dụng hình phạt tù có thời hạn mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Đối với các đối tượng tên “Cu Hai” và “Bi” đã mua và xin chuộc xe máy Yamaha Sirius, màu đen, biển kiểm soát 79N1-81758 của Lê Thành L vào ngày 12/02/2020 đều không xác định được nhân thân lai lịch. Hiện cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Z đang tiếp tục điều tra, xác minh, làm rõ; khi có đủ căn cứ sẽ xử lý sau.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, Bị hại; Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt nên Hội đồng xét xử tách ra giải quyết bằng vụ án dân sự theo thủ tục tố tụng dân sự khi có yêu cầu.

[7] Về án phí: Bị cáo Lê Thành L phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Lê Thành L.

Xử phạt: Bị cáo Lê Thành L (Tên gọi khác là Q) 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 20 tháng 5 năm 2021.

2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 30 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Bị hại; Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt nên Hội đồng xét xử tách ra giải quyết bằng vụ án dân sự theo thủ tục tố tụng dân sự khi có yêu cầu.

3.Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Lê Thành L phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

153
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 151/2022/HS-ST

Số hiệu:151/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cam Ranh - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về