Bản án về tội trộm cắp tài sản số 148/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÓC MÔN, THÀNH PH H CHÍ MINH

BẢN ÁN 148/2022/HS-ST NGÀY 12/08/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 8 năm 2022, Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 116/2022/TLST-HS ngày 21 tháng 6 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 150/2022/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 7 năm 2022, đối với bị cáo:

Lê Trọng T, sinh năm 1981 tại Hải Phòng; Giới tính: nam; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Đội 8, xã T, huyện V, thành phố H; Chỗ ở: Không nơi cư trú nhất định; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Công T và bà Đỗ Thị S; bị cáo có vợ là Trần Thanh T và 02 con, lớn nhất sinh năm 2002, nhỏ nhất sinh năm 2016; Tiền án: Ngày 17/12/2002 bị Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, Ngày 27/9/2005 bị Tòa án nhân dân quận 12 xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, Ngày 09/8/2013 bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 05 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, Ngày 05/9/2019 bị Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn xử phạt 02 năm 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”;Tiền sự: không; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 06.01.2022 cho đến nay; hiện đang tạm giam tại nhà tạm giữ công an huyện Hóc Môn; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Những người tham gia tố tụng khác:

* Bị hại:

1. Ông Ngô Văn K, sinh năm 1981 (có mặt) Địa chỉ: 116/2 ấp Chánh 1, xã T, huyện H, Tp. M.

2. Ông Nguyễn Tiến D, sinh năm 1981 (xin vắng mặt) Địa chỉ: C21 ấp Mới 1, xã T, huyện H, Tp. M.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Nguyễn Thị Thanh T, sinh năm 1986 (xin vắng mặt) Địa chỉ: 116/2 ấp Chánh 1, xã T, huyện H, Tp. M.

2. Bà Nguyễn Thu H, sinh năm 1969 (xin vắng mặt) Địa chỉ: 146 khu phố 1, phường T, quận 12, Tp. M.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Trọng T là đối tượng vừa mới ra tù, không có nghề nghiệp nên T nảy sinh ý định trộm cắp tài sản để có tiền tiêu xài, từ khoảng tháng 11/2021 đến tháng 12/2021, T đã thực hiện trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Hóc Môn nhiều lần, cụ thể:

Vụ thứ nhất: Vào khoảng 00 giờ ngày 05/11/2021, T bắt taxi (không rõ hiệu, loại 04 chỗ) từ quận 6 đến xã Tân Xuân, huyện Hóc Môn để tìm nhà dân sơ hở trộm tài sản. Khi đến nơi, sau khi thanh toán tiền xe thì T đi bộ đến số 116/2 ấp Chánh 1, xã Tân Xuân, huyện Hóc Môn của anh Ngô Văn K thấy căn nhà này nằm cạnh khu đất trống và cửa sổ khép hờ nên T đi lại nhìn vào thì thấy trên bàn làm việc (cách cửa sổ khoảng 02 mét) có để chùm chìa khóa, T liền lượm cây gỗ gần đó gắn một thanh kẽm vào đầu cây gỗ làm móc rồi móc lấy chùm chìa khóa ra. T dùng chìa khóa bấm mở cửa cuốn lên rồi đột nhập vào bên trong thì thấy 02 xe gắn máy hiệu Airblade biển số 59Y1-023.04 và Honda Lead đang dựng phòng khách. T lục lọi tìm tài sản để lấy trộm. T lấy trộm 02 điện thoại di động hiệu Samsung A50S và Samsung A32, 01 Ipad để trên tủ thờ ông địa rồi lấy 01 ba lô ở đây bỏ vào. T lấy chìa khóa mở cốp xe hiệu Honda Lead lên lấy được số tiền 1.300.000 đồng trong 01 bóp nữ rồi tiếp tục đi xuống nhà bếp lấy 01 sấp tiền mệnh giá 500.000 đồng trong ngăn tủ. Sau đó T đi lên lấy chìa khóa xe gắn máy hiệu Airblade biển số 59Y1-023.04 dắt xe gắn máy này ra ngoài và bỏ ba lô đựng tài sản trộm được ở bên trong lên xe rồi nổ máy chạy tẩu thoát. Đến khoảng 04 giờ cùng ngày, anh K thức dậy đi vệ sinh thì phát hiện bị mất trộm tài sản nên sau đó anh K đến Công an xã Tân Xuân, huyện Hóc Môn trình báo. Sau khi trộm được tài sản, T về nhà trọ tại xã An Phú Tây, huyện Bình Chánh kiểm tra thì thấy bên trong ba lô có 01 bóp nam có số tiền 1.400.000 đồng, tổng cộng số tiền T trộm là 12.700.000 đồng. T tháo 02 sim của 02 điện thoại di động ra và kiểm tra thấy Ipad không còn sử dụng được nên T bỏ Ipad, hai sim điện thoại cùng bóp nam vào trong ba lô rồi điều khiển xe gắn máy hiệu Airblade biển số 59Y1-023.04 vừa trộm được đến Công viên “Phú Lâm” để bán. Trên đường đi T vứt ba lô xuống sông khi qua cầu “Bình Điền”. Khi đến Công viên “Phú Lâm” thì gặp D. D điện thoại cho một người thanh niên nam, 01 người phụ nữ (đều chưa rõ lai lịch) đến và T bán xe gắn máy này cho người thanh niên được 3.400.000 đồng, bán 02 điện thoại di động trên được 6.900.000 đồng, số tiền này T đã tiêu xài hết.

Anh Ngô Văn K trình bày như nội dung trên, tài sản bị mất trộm gồm 02 điện thoại di động hiệu Samsung A50S và Samsung A32, 01 máy Ipad, 01 xe gắn máy hiệu Airblade biển số 59Y1-023.04, số tiền mặt 12.700.000 đồng.

Ngày 18/11/2021, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn có kết luận định giá tài sản số 171/KL-HĐĐGTS kết luận: 01 xe gắn máy hiệu Honda Airblade biển số 59Y1-023.04, số máy 0546499-JF27E, số khung 526000Y có giá trị là 14.000.000 đồng, 01 điện thoại di động hiệu Samsung A50S Green màu xanh có giá trị là 1.500.000 đồng, 01 điện thoại di động hiệu Samsung galaxy A32 (6G+128G) màu trắng có giá trị là 1.500.000 đồng, 01 máy tính bảng Ipad mini 2 32G hiệu Apple có giá trị là 3.000.000 đồng. Tổng số tiền 20.000.000 đồng.

Vụ thứ hai: Khoảng 23 giờ ngày 30/12/2021, Lê Trọng T đi bộ từ khách sạn “Trúc Anh” ra đón xe ôm của 01 người đàn ông khoảng 40 tuổi chở đến địa bàn huyện Hóc Môn để trộm tài sản. Khi đến quốc lộ 1A, T tiếp tục đón xe taxi (không rõ hãng, loại 7 chỗ) chở đến đường Tô Ký thuộc tổ 1, ấp Mới 1, xã Tân Xuân, huyện Hóc Môn. Thấy đoạn đường này vắng nên T kêu taxi dừng lại thanh toán tiền xe. T đi bộ vào khu dân sự ở đây thì thấy phía trước khu dân cư có bảo vệ canh giữ nên nghĩ nhà ở đây sẽ có tài sản giá trị nên T liền men theo tường rào rồi leo vào bên trong. T đi đến bên hông nhà số C21 ấp Mới 1, xã Tân Xuân, huyện Hóc Môn của anh Nguyễn Tiến D dùng tua vít gỡ kính cửa ra rồi đột nhập vào bên trong và dùng điện thoại Nokia màu xanh của T để soi đèn tìm tài sản thì thấy 02 xe gắn máy hiệu Vision và xe Honda SH 125i màu đỏ biển số 59G1-041.85 đang dựng cạnh cầu thang, cạnh tường có treo chìa khóa xe nên T liền lấy chìa khóa cắm vào xe SH mở công tắc lên dắt xe ra cổng rồi dùng kềm cắt ổ khóa cổng đẩy xe ra ngoài nổ máy chạy tẩu thoát. Ngày 05/01/2022 anh D đến công an xã Tân Xuân trình báo. Sau khi trộm được xe gắn máy Honda SH 125i màu đỏ biển số 59G1-041.85 thì T đem xe gắn máy này đến khu vực công viên “Phú Lâm” đường Kinh Dương Vương, phường 13, quận 6. Tại đây T gặp 01 người chuyển giới tên D (chưa rõ lai lịch) và D điện thoại cho 01 người đàn ông (chưa rõ lai lịch) đến rồi T bán xe gắn máy này cho người đàn ông được số tiền 12.000.000 đồng.

Ngày 10/01/2022, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn có kết luận định giá tài sản số 12/KL-HĐĐGTS kết luận: 01 xe gắn máy Honda SH 125i (xe ngoại nhập) biển số 59G1-041.85 có giá trị là 80.000.000 đồng.

Tại cơ quan điều tra, Lê Trọng T khai nhận như nội dung nêu trên, lời khai của T phù hợp với lời khai các bị hại, vật chứng thu giữ và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Vật chứng thu giữ:

- 01 đoạn cây gỗ dài khoảng 2,4m trên đầu có cột 01 đoạn kim loại hình móc.

- 01 nón kết màu đỏ, 01 nón kết màu đỏ đen, 01 áo thun dài tay màu đỏ có chữ CALVIN KLEIN trước ngực của áo, 01 áo sơ mi dài tay màu xanh đen, 01 quần Jean dài màu xanh có chữ DG, 01 quần Jean dài màu xanh có ghi chữ DEMIN IN GUCCI, 01 đôi giày màu xám trắng có chữ REPAY, 01 đôi giày màu xanh trắng có chữ ASIA, 01 đôi giày màu đỏ có chữ PUMA và 01 khẩu trang sọc caro màu xanh trắng vàng. Đây là số trang phục T mặc để trộm tài sản tại nhà anh D ngày 31/12/2021 và tại nhà anh K ngày 05/11/2021.

- 01 điện thoại di động Nokia màu xanh T dùng để gọi điện đặt xe taxi, bật đèn pin để trộm tài sản.

- Số tiền 300.000 đồng là tiền do T bán xe SH 125i còn lại.

Về dân sự: Anh K yêu cầu bồi thường số tiền 35.000.000 đồng. Anh D yêu cầu bồi thường số tiền 160.000.000 đồng.

Đối với D, người đàn ông, người thanh niên nam và người phụ nữ mua tài sản do T trộm cắp đều không rõ nhân thân lai lịch, Cơ quan cảnh sát điều tra không đủ căn cứ để xử lý.

Tại Bản cáo trạng số 125/CT-VKS-HS ngày 20 tháng 6 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn, Tp.Hồ Chí Minh đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn để xét xử bị cáo Lê Trọng T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b, c, g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị tuyên bị cáo Lê Trọng T phạm tội “Trộm cắp tài sản”; Áp dụng điểm b, c, g khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lê Trọng T từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm 06 tháng tù.

Tịch thu tiêu hủy: 01 đoạn cây gỗ dài khoảng 2,4m trên đầu có cột 01 đoạn kim loại hình móc, 01 nón kết màu đỏ, 01 nón kết màu đỏ đen, 01 áo thun dài tay màu đỏ có chữ CALVIN KLEIN trước ngực của áo, 01 áo sơ mi dài tay màu xanh đen, 01 quần Jean dài màu xanh có chữ DG, 01 quần Jean dài màu xanh có ghi chữ DEMIN IN GUCCI, 01 đôi giày màu xám trắng có chữ REPAY, 01 đôi giày màu xanh trắng có chữ ASIA, 01 đôi giày màu đỏ có chữ PUMA và 01 khẩu trang sọc caro màu xanh trắng vàng, bị cáo dùng vào việc phạm tội nên Hội đồng xét xử xét thấy cần tịch thu tiêu hủy.

Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động Nokia màu xanh.

Số tiền 300.000 đồng là tiền do T bán xe SH 125i còn lại nên cấn trừ vào số tiền bị hại D yêu cầu bồi thường 160.000.000 đồng.

Buộc bị cáo T bồi thường cho anh K số tiền 35.000.000 đồng và bồi thường cho anh D số tiền 160.000.000 đồng.

Bị cáo Lê Trọng T khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu và xin được hưởng mức án nhẹ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hóc Môn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Lê Trọng T khai nhận: Bản thân vì mục đích vụ lợi các nhân, vào ngày 31/12/2021 và ngày 05/11/2021, bị cáo đã nhiều lần có hành vi lén lút trộm cắp tài sản của anh K trị giá tài sản là 32.700.000 đồng và trộm cắp tài sản của anh D trị giá tài sản là 80.000.000 đồng.

Bị cáo T có 04 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục thực hiện hành vi lén lút trộm cắp tài sản của bị hại, do đó hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp có tính chất chuyên nghiệp, tái phạm nguy hiểm và trị giá tài sản từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng.

Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các vật chứng cùng các tài liệu thể hiện tại hồ sơ vụ án, phù hợp với Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn đã truy tố. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở pháp lý để kết luận bị cáo Lê Trọng T phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b, c, g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự của Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.

[3] Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm sở hữu tài sản của công dân, mà còn gây mất an ninh trật tự tại địa phương tạo ra một dư luận xấu trong nhân dân. Do đó, cần có mức án nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra, phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử cũng xem xét về nhân thân, tính chất mức độ và hậu quả của hành vi, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

[4] Về nhân thân bị cáo: Tiền án:

Ngày 17.12.2002 bị Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Ngày 27.9.2005 bị Tòa án nhân dân quận 12 xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Ngày 09.8.2013 bị Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 05 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Ngày 05.9.2019 bị Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn xử phạt 02 năm 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Tiền sự: không.

[5] Tình tiết giảm nhẹ: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự là phù hợp.

[6] Tình tiết tăng nặng: Phạm tội 02 lần trở lên được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[7] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 đoạn cây gỗ dài khoảng 2,4m trên đầu có cột 01 đoạn kim loại hình móc, 01 nón kết màu đỏ, 01 nón kết màu đỏ đen, 01 áo thun dài tay màu đỏ có chữ CALVIN KLEIN trước ngực của áo, 01 áo sơ mi dài tay màu xanh đen, 01 quần Jean dài màu xanh có chữ DG, 01 quần Jean dài màu xanh có ghi chữ DEMIN IN GUCCI, 01 đôi giày màu xám trắng có chữ REPAY, 01 đôi giày màu xanh trắng có chữ ASIA, 01 đôi giày màu đỏ có chữ PUMA và 01 khẩu trang sọc caro màu xanh trắng vàng, bị cáo dùng vào việc phạm tội nên Hội đồng xét xử xét thấy cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động Nokia màu xanh, bị cáo dùng vào việc phạm tội nên Hội đồng xét xử xét thấy cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

- Đối với số tiền 300.000 đồng là tiền do T bán xe SH 125i còn lại, tại phiên tòa bị cáo đồng ý bồi thường theo yêu cầu của bị hại nên Hội đồng xét xử xét thấy cần trả lại cho bị cáo số tiền này nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[8] Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại Ngô Văn K yêu cầu bị cáo Tbồi thường số tiền 35.000.000 đồng, tại phiên tòa bị cáo đồng ý bồi thường nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

Bị hại Nguyễn Tiến D yêu cầu bị cáo T bồi thường số tiền 160.000.000 đồng, tại phiên tòa bị cáo đồng ý bồi thường nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[9] Án phí hình sự sơ thẩm: bị cáo chịu theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng điểm b, c, g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự;

Tuyên bố bị cáo Lê Trọng T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Lê Trọng T 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 06.01.2022.

2. Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu hủy: 01 đoạn cây gỗ dài khoảng 2,4m trên đầu có cột 01 đoạn kim loại hình móc, 01 nón kết màu đỏ, 01 nón kết màu đỏ đen, 01 áo thun dài tay màu đỏ có chữ CALVIN KLEIN trước ngực của áo, 01 áo sơ mi dài tay màu xanh đen, 01 quần Jean dài màu xanh có chữ DG, 01 quần Jean dài màu xanh có ghi chữ DEMIN IN GUCCI, 01 đôi giày màu xám trắng có chữ REPAY, 01 đôi giày màu xanh trắng có chữ ASIA, 01 đôi giày màu đỏ có chữ PUMA và 01 khẩu trang sọc caro màu xanh trắng vàng.

Tịch thu sung vào Ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động Nokia màu xanh.

Trả lại cho bị cáo số tiền 300.000 đồng nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Buộc bị cáo Tài bồi thường cho anh Ngô Văn K số tiền 35.000.000 đồng. Thi hành khi án có hiệu lực pháp luật tại Chi Cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Buộc bị cáo Tài bồi thường cho anh Nguyễn Tiến D số tiền 160.000.000 đồng. Thi hành khi án có hiệu lực pháp luật tại Chi Cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

(Vật chứng của vụ án do Chi cục thi hành án dân sự huyện Hóc Môn đang quản lý theo Quyết định chuyển vật chứng số 17/QĐ-VKS-HS ngày 15/6/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn)

3. Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí T a án;

Bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng. Bị cáo chịu án phí dân sự sơ thẩm là 9.750.000 đồng.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

121
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 148/2022/HS-ST

Số hiệu:148/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hóc Môn - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về