Bản án về tội trộm cắp tài sản số 148/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

 BẢN ÁN 148/2020/HS-ST NGÀY 13/11/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 13 tháng 11 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 143/2020/TLST-HS ngày 09 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 156/2020/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Trần Văn Q, sinh ngày 04 tháng 02 năm 2000, tại tỉnh Thái Bình; Nơi cư trú: Thôn T1, xã P, huyện V, tỉnh Thái Bình; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: lớp 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông: Trần Văn N, sinh năm 1974; con bà: Bùi Thị Vân, sinh năm 1977; bị cáo chưa có vợ, con; nhân thân: Từ ngày 20/02/2019 tham gia nghĩa vụ Công an nhân dân tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Bình đến ngày 22/7/2020 được xuất ngũ về địa phương; Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 30/7/2020. Có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại: Chị Trần Thị H, sinh năm 1975; Cư trú: Số nhà 32, đường B, khu đô thị P, tổ 05, phường Q, thành phố T; vắng mặt.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1- Anh Vũ Mạnh Q, sinh năm 2000 2- Ông Trần Văn N, sinh năm 1974 Đều trú tại: Thôn T1, xã P, huyện V, tỉnh Thái Bình; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 3/2020, Trần Văn Q kết bạn qua mạng xã hội Facebook, làm quen với chị Trần Thị H. Sau đó, giữa Q và chị H nảy sinh tình cảm nam nữ. Một ngày trong tháng 6/2020, Q đến nhà chị H chơi và tâm sự với chị H tại phòng ngủ tầng 2, Q quan sát thấy trong phòng có để 01 két sắt. Lợi dụng lúc chị H không ở trong phòng ngủ, két sắt không khóa mà chỉ khép hờ, Q mở két sắt thấy bên trong có 01 cọc tiền và 01 chùm chìa khóa két. Q đã nảy sinh ý định lấy trộm tiền của chị H để tiêu xài, nhưng do sợ bị chị H phát hiện nên Q đã lấy 01 chìa khóa dự phòng của két sắt và cất giấu vào ví da của mình để khi có điều kiện thuận lợi sẽ mở két sắt trộm cắp tiền của chị H.

Khoảng 18 giờ 10 phút ngày 24/7/2020, Q đến nhà chi H chơi sau đó hai người cùng lên phòng ngủ tầng 2 của chị H nằm tâm sự. khi vào phòng chị H có đeo 01 chiếc túi xách màu be bên trong có 01 cọc tiền, tổng cộng 51.170.000 đồng là tiền bán hàng quần áo của chị H và đặt trên mặt bàn kê ở đầu giường ngủ. Q biết trong túi có tiền nên đã nảy sinh ý định trộm cắp. Q bảo chị H đi lấy cho Q 01 cốc nước để uống. Khi chị H ra khỏi phòng, Q đã dùng tay kéo khóa mở túi xách của chị H lấy 01 cọc tiền, gồm các mệnh giá 100.000 đồng, 200.000 đồng và 500.000 đồng. Q rút nhiều tờ tiền loại 100.000 đồng, 200.000 đồng và 500.000 đồng cho vào ví của mình rồi cất số tiền còn lại vào trong túi xách, rồi kéo khóa lại và để vào chỗ cũ. Sau đó Q lấy chìa khóa có sẵn trong ví, mở két sắt thấy bên trong có 01 cọc tiền, mệnh giá 200.000 đồng và 500.000 đồng, tổng cộng 65.000.000 đồng. Q rút từ cọc tiền trên nhiều tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng cho vào trong ví của Q rồi cất giấu vào 01 túi xách màu đen Q mang theo rồi khóa két sắt lại lên giường nằm. Một lúc sau, chị H lên phòng, Q và chị H nằm tâm sự với nhau đến khoảng 19 giờ 20 phút cùng ngày thì Q đi về nhà. Trên đường về, khi đến đường 216, thuộc địa phận xã Tân Hòa, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình, Q lấy số tiền trộm cắp của chị H ra đếm được 23.000.000 đồng. Khoảng 20 giờ cùng ngày, Q lấy 1.200.000 đồng mang trả nợ cho anh Vũ Mạnh Q là bạn cùng thôn với Q và tiêu xài cá nhân hết 600.000 đồng. Số tiền còn lại là 21.200.000 đồng, Q mang về nhà để. Khoảng 17 giờ 10 phút ngày 25/7/2020, sau khi bị chị H phát hiện, Q đã mang số tiền 21.200.000 đồng giao nộp cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Bình. Ngày 26/7/2020, ông Trần Văn N là bố đẻ của Q đã giao nộp cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình số tiền 1.800.000 đồng để khắc phục hậu quả cho chị H.

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn Q khai nhận thực hiện hành vi trộm cắp số tiền 23.000.000 đồng của chị Trần Thị H như nội dung đã nêu ở trên.

Bản cáo trạng số 144/CT-VKSTPTB ngày 08 tháng 10 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình truy tố bị cáo Trần Văn Q về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

* Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Văn Q phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

* Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s,b,i khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 50; Điều 65 Bộ luật hình sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Trần Văn Q mức án từ 12 tháng đến 15 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 đến 30 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

* Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra giải quyết.

* Về vật chứng: Áp dụng Điều 46,47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Trả lại cho bị cáo Trần Văn Q 01 túi xách bằng da màu đen, mặt trước túi xách có in dòng chữ “Fuzhiniao”; 01 ví da nam màu đen, trên mặt trước có dòng chữ “Polo club:; 01 áo phông nam màu trắng, cổ tròn; 01 quần dài nam, vải gió màu đen; 01 đôi giầy thể thao nam màu xanh, cỡ 41.

Bị cáo đồng ý với tội danh mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình đã truy tố và không có ý kiến tranh luận đối với luận tội của Kiểm sát viên.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Trần Văn N trình bày: Khi bị cáo Q phạm tội gia đình biết và tự nguyện khắc phục hậu quả và tại phiên tòa gia đình tôi không có ý kiến gì đối với số tiền trả cho người bị hại. Tôi đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ đối với Q để Q được hưởng mức án thấp, bị cáo yên tâm cải tạo để sớm trở về gia đình và xã hội.

Anh Vũ Mạnh Q trình bày: Mong HĐXX xem xét cho Q được hưởng mức án thấp nhất để Q yên tâm cải tạo.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo yên tâm cải tạo thành công dân có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Bình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan điều tra. Lời khai nhận tội của bị cáo còn được chứng minh bằng các chứng cứ như: Lời khai bị hại, các biên bản quản lý đồ vật do cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình lập hồi 17 giờ 10 phút; 17 giờ 40 phút cùng ngày 30/3/2020; hồi 17 giờ 50 phút ngày 26/7/2020 và hồi 10 giờ 35 phút ngày 27/7/2020 tại trụ sở Công an thành phố Thái Bình, tỉnh Thái bình; biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường, bản ảnh hiện trường do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Bình lập hồi 07 giờ 30 phút ngày 25/7/2020 tại nhà chị H; kết luận giám định số 5362/C09-P6 kèm theo phụ lục ngày 11/9/2020 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận mô tả hành động của người đàn ông xuất hiện tại phòng ngủ tầng 2 nhà chị H; lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Xét thấy lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến, phù hợp với các chứng cứ khác về thời gian, địa điểm, hành vi phạm tội, loại tài sản bị cáo đã chiếm đoạt. Như vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 18 giờ 25 phút ngày 24/7/2020 tại phòng ngủ tầng 2 nhà Trần Thị H, Trần Văn Q thực hiện hành vi trộm cắp của chị Trần Thị H số tiền 23.000.000 đồng để chi tiêu cá nhân. Vì vậy, bị cáo Trần Văn Q đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

...”.

[3] Về tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi trộm cắp tài sản mà bị cáo Q thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, bị cáo đã lợi dụng lúc bị hại sơ hở trong việc quản lý, giám sát lỏng lẻo của chủ sở hữu, bị cáo đã lén lút chiếm đoạt tài sản. Vì vậy phải xử phạt bị cáo một mức án tương xứng với hậu quả của hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Trần Văn Q đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo đã khắc phục thiệt hại; bị cáo có thời gian phục vụ trong lực lượng Công an nhân dân nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b,i,s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

[5] Trên cơ sở đánh giá tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử thấy bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có khả năng tự cải tạo và việc cho bị cáo hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù đối với bị cáo, cần áp dụng hình phạt tù cho hưởng án treo đồng thời giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Ngày 16 tháng 09 năm 2020 cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Bình ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho chị Trần Thị H, sinh năm 1975; Trú tại: Số nhà 32, đường B, tổ 05, phường Q, thành phố T, gồm: 01 chiếc túi xách nữ màu be có dây đeo, mặt nắp khóa có dòng chữ “Charles & Keith” đã qua sử dụng; 01 chiếc chìa khóa làm bằng kim loại sáng màu, một mặt chìa khóa có dãy số: 849258 (đã qua sử dụng ); Số tiền 21.200.000 đồng; Số tiền 1.800.000 đồng. Chị H nhận lại toàn bộ tài sản trên và không có ý kiến gì.

[7] Về vật chứng: Áp dụng Điều 46,47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Trả lại cho bị cáo Trần Văn Q 01 túi xách bằng da màu đen, mặt trước túi xách có in dòng chữ “Fuzhiniao”; 01 ví da nam màu đen, trên mặt trước có dòng chữ “Polo club:; 01 áo phông nam màu trắng, cổ tròn; 01 quần dài nam, vải gió màu đen; 01 đôi giầy thể thao nam màu xanh, cỡ 41.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn luật định.

Vì các lẽ trên,

 QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm b,i,s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 46; Điều 50; Điều 65 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Căn cứ vào Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn Q phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Trần Văn Q 09 (chín) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Trần Văn Q cho Ủy ban nhân dân xã Phúc Thành, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình nơi bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục.

Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra giải quyết.

4. Về vật chứng: Áp dụng Điều 46,47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Trả lại cho bị cáo Trần Văn Q 01 túi xách bằng da màu đen, mặt trước túi xách có in dòng chữ “Fuzhiniao”; 01 ví da nam màu đen, trên mặt trước có dòng chữ “Polo club; 01 áo phông nam màu trắng, cổ tròn; 01 quần dài nam, vải gió màu đen; 01 đôi giầy thể thao nam màu xanh, cỡ 41.

5.Về án phí: Bị cáo Trần Văn Q phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (13/11/2020); người bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

286
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 148/2020/HS-ST

Số hiệu:148/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về