TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG ĐIỀN, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU
BẢN ÁN 145/2021/HS-ST NGÀY 27/10/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 27 tháng 10 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 132/2021/TLST-HS ngày 03 tháng 8 năm 2021 về tội “Trộm cắp tài sản”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 146/2021/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 09 năm 2021, đối với bị cáo:
Họ và tên: Lê L, Giới tính: Nam. Sinh ngày 14/01/2003, tại: tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Nơi cư trú: Khu phố Hải Hòa, thị trấn H, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. (Có mặt) Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Trình độ học vấn: 04/12; Nghề nghiệp: Thợ sơn. Cha: Lê T, sinh năm 1969; Nghề nghiệp: Làm thuê. Mẹ: Nguyễn Thị H1, sinh năm 1969; Nghề nghiệp : Nội trợ. Bị cáo là con thứ năm trong gia đình có tám anh chị em. Vợ, con: Chưa có.
Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo hiện đang được tại ngoại.
Bị hại: Em Trần Hoàng N, sinh năm 2007; Địa chỉ: Khu phố Hải Tân, thị trấn H, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. (Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt)
Người giám hộ của bị hại: Ông Trần Văn H2, sinh năm 1975; Địa chỉ: Khu phố Hải Tân, thị trấn H, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. (Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt)
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Em Hồng Trúc K, sinh năm 2006; Khu phố Hải Tân, thị trấn H, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. (Có mặt)
Người giám hộ ch em Hồng Trúc K: Bà Nguyễn Thị L1, sinh năm 1970; địa chỉ: khu phố Hải Tân, thị trấn H, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. (Có mặt)
Người làm chứng: Ông Huỳnh Hồng Q, sinh năm 1992; Địa chỉ: Khu phố Hải Hòa, thị trấn H, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. (Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 17 giờ ngày 29/3/2021, Lê L, đi đến Cơ sở Internet Q thuộc khu khố Hải Hòa, thị trấn H, huyện Long Điền để chơi Game. Tại đây, L gặp Nguyễn Xuân Thành P, Hồng Trúc K và Bin (không rõ nhân thân lai lịch, là bạn của K) đang chơi game tại bàn máy tính số 43. Trong quá trình ngồi chơi game, K đã nhìn thấy chiếc điện thoại di động Samsung A12 màu đen của Trần Hoàng N, đang để tại bàn máy tính số 36 đổ chuông nhưng không có người nghe máy. Do muốn chiếm đoạt điện thoại nói trên nhưng không dám nên K nói cho P và L biết chỗ để điện thoại. Khi nghe K nói, P liền đi đến bàn máy tính số 36 ngồi và giả vờ mở máy tính chơi game, L đi theo và đứng phía sau bên phải P. Lúc này, P nhanh chóng lấy chiếc điện thoại từ trên bàn máy tính bên trái để sang bên phải rồi L dùng tay lấy chiếc điện thoại cất giấu vào trong lưng quần phía trước và tất cả bỏ đi. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, K với Bin đi đến gặp L để hỏi về chiếc điện thoại trên nhưng do chiếc điện thoại còn mới L không bán mà để sử dụng nên L đưa cho K số tiền 400.000 đồng. Theo lời khai của K, sau đó, K đưa cho Bin số tiền 200.000 đồng với mục đích để Bin không nói cho người khác biết việc L và P lấy trộm điện thoại.
Trần Hoàng N sau khi đi vệ sinh quay lại bàn máy tính số 36 để tiếp tục chơi game thì phát hiện chiếc điện thoại để trên bàn bị mất. Qua trích xuất camera tại Cơ sở internet Q, N đã đến cơ quan Công an trình báo sự việc nêu trên. Qua làm việc, L và K đã khai nhận toàn bộ hành vi như đã nêu trên.
Tại bản Kết luận định giá tài sản số 23/KL.HĐĐGTS ngày 12/4/2021 của Hội đồng định giá tài sản huyện Long Điền kết luận: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung galaxy A12 màu đen, số Imei 35288477900339674 đã qua sử dụng trị giá 3.861.000 đồng (ba triệu tám trăm sáu mươi mốt nghìn đồng).
Vật chứng thu giữ và xử lý:
01 (một) chiếc điện thoại Samsung galaxy A12 màu đen, số Imei 35288477900339674 (đã qua sử dụng). Ngày 06/6/2021, Cơ quan CSĐT Công an huyện Long Điền đã trao trả chiếc điện thoại trên cho anh Trần Hoàng N là chủ sở hữu.
01 USB chứa dữ liệu điện tử nội dung liên quan đến hành vi chiếm đoạt tài sản của L, K và P. Hiện lưu theo hồ sơ vụ án.
Về phần trách nhiệm dân sự: Sau khi đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt, Trần Hoàng N và ông Trần Văn H2 (giám hộ cho N) không có yêu cầu gì thêm.
Tại bản cáo trạng số: 133/CT-VKSLĐ, ngày 02-8-2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Điền quyết định truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Long Điền để xét xử bị cáo Lê L về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa: Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Điền giữ nguyên Quyết định truy tố bị cáo theo nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
+ Về hình sự: Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Lê L từ 6 đến 9 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”.
+ Về vật chứng: 01 (một) chiếc điện thoại Samsung galaxy A12 màu đen, số Imei 35288477900339674 (đã qua sử dụng). Ngày 06/6/2021, Cơ quan CSĐT Công an huyện Long Điền đã trao trả chiếc điện thoại trên cho anh Trần Hoàng N là chủ sở hữu nên không xem xét.
Tiếp tục lưu theo hồ sơ vụ án 01 USB chứa dữ liệu điện tử nội dung liên quan đến hành vi chiếm đoạt tài sản của L, K và P.
+ Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường nên không xem xét.
+ Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, bị cáo Lê L thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo là đúng theo bản cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố cũng như lời khai của những người tham gia tố tụng khác cùng các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án; Bị cáo L nói lời nói sau cùng: Bị cáo đã ăn năn hối cải, không dám tái phạm và xin được giảm nhẹ hình phạt.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ; sau khi nghe quan điểm Kiểm sát viên, ý kiến của bị cáo và người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Long Điền, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Điền, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa, bị cáo Lê L đã khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản của mình. Xét thấy, lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 17 giờ ngày 29/3/2021, tại Cơ sở Internet Q thuộc khu khố Hải Hòa, thị trấn H, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Lê L đã có hành vi lén lút chiếm đoạt chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung galaxy A12 màu đen (đã qua sử dụng) của Trần Hoàng N đang để trên bàn máy tính số 36 trong tiệm internet với trị giá đã định là 3.861.000 đồng (ba triệu tám trăm sáu mươi mốt nghìn đồng).
Bị cáo Lê L có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi lén lút lấy trộm tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng do muốn có tiền tiêu xài nên bị cáo vẫn bất chấp cố ý thực hiện hành vi trộm cắp. Như vậy hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ Luật hình sự, nội dung điều luật như sau: “1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng... thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.” Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Điền truy tố bị cáo Lê L về tội danh và điều luật như trên là đúng pháp luật.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật hình sự bảo vệ đồng thời gây mất tự trị an trên địa bàn, thể hiện tính coi thường pháp luật nên cần xử phạt bị cáo một mức án thật nghiêm khắc, phù hợp với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo nhằm răn đe, giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.
Trong quá trình điều tra, Nguyễn Thành Xuân P bỏ đi khỏi địa phương chưa làm việc đươc và đối tượng tên Bin (chưa xác định nhân thân lai lịch) đề nghị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Long Điền tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau.
Đối với Hồng Trúc K sinh ngày 28/3/2006, tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội K chưa đủ 16 tuổi nên không phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội trong vụ án nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Long Điền đã chuyển hồ sơ sang xử lý hành chính là đúng quy định.
[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo:
- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h, s, i khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử sẽ xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo.
- Về nhân thân: Bị cáo không có tiền án, tiền sự.
[4] Căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội:
Căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo phạm tội lần đầu, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng. Xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội mà tiếp tục giao cho gia đình và địa phương quản lý, giám sát, giáo dục bị cáo cũng đủ răn đe giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.
Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có công việc làm và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường nên không xem xét giải quyết.
[6] Về vật chứng trong vụ án: 01 (một) chiếc điện thoại Samsung galaxy A12 màu đen, số Imei 35288477900339674 (đã qua sử dụng). Ngày 06/6/2021, Cơ quan CSĐT Công an huyện Long Điền đã trao trả chiếc điện thoại trên cho anh Trần Hoàng N là chủ sở hữu nên không xem xét.
01 USB chứa dữ liệu điện tử nội dung liên quan đến hành vi chiếm đoạt tài sản của L, K và P nên cần tiếp tục lưu theo hồ sơ vụ án.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về trách nhiệm hình sự: Căn cứ khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự tuyên bố bị cáo Lê L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Lê L 6 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 (mười hai) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo Lê L cho Ủy ban nhân dân thị trấn H, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu để giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách.
Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ Luật hình sự; Điều 106 Bộ Luật tố tụng hình sự: Tiếp tục lưu theo hồ sơ vụ án 01 USB chứa dữ liệu điện tử nội dung liên quan đến hành vi chiếm đoạt tài sản của L, K và P.
3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án buộc bị cáo Lê L phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự: Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (27-10-2021), bị cáo có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu để yêu cầu xét xử lại vụ án theo trình tự phúc thẩm.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 145/2021/HS-ST
Số hiệu: | 145/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Long Điền - Bà Rịa - Vũng Tàu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/10/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về