Bản án về tội trộm cắp tài sản (trộm xe ô tô) số 14/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LỘC, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 14/2024/HS-ST NGÀY 06/02/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 05/2024/TLST-HS ngày 24 tháng 01 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2024/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo:

NGUYỄN ĐỨC H, sinh năm 1998 tại huyện G, tỉnh Hải Dương; Hộ khẩu thường trú và cư trú: Thôn L, xã T, huyện G, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đức H1 và bà Đặng Thị H2; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: Ngày 01/10/2021, Công an xã Gia Tân, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 13/QĐ-XPHC về hành vi “Trộm cắp tài sản”. Ngày 04/10/2021, H chấp hành xong quyết định xử phạt (đã được xoá).

Hiện đang chấp hành biện pháp ngăn chặn “Tạm giam” tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương. Có mặt.

- Người bào chữa: Ông Nguyễn Duy H3 – Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Hải Dương. Có mặt.

- Bị hại: Ông Nguyễn Văn X, sinh năm 1984; nơi cư trú: Thôn L, xã T, huyện G, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do không có việc làm, đam mê trò chơi điện tử nên Nguyễn Đức H để ý và biết ở chùa PL thuộc thôn L, xã T, huyện G, tỉnh Hải Dương không có người trông coi nên H nảy sinh ý định trộm cắp tài sản tại chùa. Khoảng 23 giờ ngày 29/11/2023, H đi bộ từ nhà ở thôn L, xã T, huyện G, tỉnh Hải Dương theo lối đường bê tông sau chùa vòng ra cổng chính. Thấy cổng chùa đã khóa, H đứng lên bệ đá giáp tường bao phía bên phải cổng chùa nhìn vào phía trong khuôn viên chùa thì không thấy có người. H phát hiện thấy xe ô tô biển số: 34A- 247.xx của ông Nguyễn Văn X là sư trụ trì của chùa đang đỗ trong lán xe phía cuối sân chùa, đầu xe ô tô quay vào trong, đuôi xe quay ra hướng cổng chùa.

Do H đã có lần trộm cắp tiền trong ô tô của ông X nên H có ý định tìm tài sản trong xe ô tô của ông X để trộm cắp. H đứng lên bệ đá ngoài cổng chùa và nhảy lên tường bao ngay cổng chùa, bước qua hàng rào dây thép gai trên tường bao rồi nhảy vào trong khuôn viên chùa. H đi thẳng đến khu vực lán xe để ô tô của ông X. H phát hiện cửa ô tô chỉ đóng, không khóa. Lúc này, H mở cửa phía trước bên ghế lái xe ô tô để tìm tài sản thì phát hiện trên ghế lái xe ô tô có một chiếc ví da, màu đen, hình chữ nhật kích thước khoảng (20x10)cm, có khóa kéo tại miệng ví. H cầm chiếc ví, đứng ngay phía ngoài sát cửa ghế lái của xe ô tô kiểm tra trong ví, thấy khóa của ví đã mở sẵn. H kiểm tra thì thấy ở ngăn bên trái của ví có số tiền 2.500.000 đồng gồm 12 tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng và 01 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng. Kiểm tra ở ngăn bên phải của ví còn có một phong bì tiền, bên trong có 3.000.000 đồng gồm 06 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng. H lấy phong bì ra khỏi ví, xé miệng phong bì và rút toàn bộ số tiền trong phong bì, đút số tiền trộm cắp được vào túi quần bò bên phải, còn vỏ phong bì H đút vào túi sau bên phải quần bò đang mặc. H kiểm tra trong ví không còn tài sản nên để ví vào vị trí cũ, đóng cửa ô tô lại và nhảy qua tường bao tẩu thoát ra bên ngoài, đi về nhà theo lối cũ.

Về đến nhà, H bỏ số tiền đã trộm cắp được ra đếm thì được 5.500.000 đồng. Sau đó, H cầm số tiền đã trộm cắp được đi bộ đến quán Internet O ở số 2xx, phố C, thị trấn GL, huyện G, tỉnh Hải Dương do anh Tăng Hữu P - sinh năm 1993, trú tại: Số 8x, phố B, thị trấn GL, huyện G, tỉnh Hải Dương là chủ quán để chơi game. Trên đường đi, H dùng bật lửa mang theo đốt vỏ phong bì lấy trước đó tại chùa PL, H vứt chiếc bật lửa không rõ vị trí ở đâu.

Đến ngày 30/11/2023, tại quán Inernet game O, H thanh toán cho anh Đặng Duy Q - sinh năm 2001, trú tại: thôn E, xã K, huyện G, tỉnh Hải Dương là nhân viên của quán số tiền 900.000 đồng bao gồm tiền mua thẻ game, tiền giờ sử dụng máy, tiền nước. Đồng thời H thanh toán cho anh P số tiền 500.000 đồng tiền mua thẻ game.

Khoảng 10 giờ ngày 30/11/2023, H đi đến quán Nét N, địa chỉ: số 4xx, R, khu 7, thị trấn GL, huyện G, tỉnh Hải Dương gặp chị Nguyễn Thị S - sinh năm 1989 là chủ quán. Tại đây, H nhờ chị S chuyển khoản hộ H số tiền 1.500.000 đồng vào tài khoản của H để H chơi game. Chị S đồng ý dùng số tài khoản 4601000351xxxx tại Ngân hàng BIDV của mình chuyển số tiền 1.500.000 đồng đến số tài khoản 103417xxxx tại Ngân hàng Vietcombank của H. Sau khi chuyển thành công thì H đưa cho chị S số tiền 1.500.000 đồng và 20.000 đồng tiền phí, rồi H quay lại quán của anh P chơi game tiếp.

Đến khoảng 17 giờ ngày 30/11/2023, H đến nhà ông Tăng Văn V- sinh năm 1966, địa chỉ: thôn PT, xã T, huyện G, tỉnh Hải Dương trả ông V số tiền 2.500.000 đồng do H vay ông V trước đó, số tiền còn lại H chi tiêu ăn uống hết. Ngày 01/12/2023, H đến Công an xã Gia Tân, huyện Gia Lộc đầu thú khai báo toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Về trách nhiệm dân sự: Nguyễn Đức H đã tác động đến mẹ đẻ là bà Đặng Thị H2 - sinh năm 1966, trú tại: thôn L, xã T, huyện G, tỉnh Hải Dương bồi thường cho ông Nguyễn Văn X số tiền 5.500.000 đồng để khắc phục hậu quả. Ông X đã nhận số tiền trên, không yêu cầu H phải bồi thường. Bà H2 tự nguyện cho H số tiền trên, không yêu cầu H trả lại. Nguồn gốc số tiền 3.000.000 đồng đựng trong phong bì để trong ví của ông X là của chị Nguyễn Mai M - sinh năm 1982, địa chỉ: phường PL, quận Đ, Thành phố Hà Nội. Chị M tự nguyện cho ông X số tiền trên.

Tại Cáo trạng số 08/CT-VKS ngày 24/01/2024, Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương truy tố Nguyễn Đức H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lộc giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 173, điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự; Điều 135, Điều 136, khoản 1 Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Đức H phạm tội "Trộm cắp tài sản". Xử phạt bị cáo H từ 07 tháng đến 09 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 01/12/2023. Hình phạt bổ sung: không áp dụng. Trách nhiệm dân sự: không giải quyết. Về án phí: Bị cáo H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Người bào chữa nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự với mức án nhẹ nhất.

Bị cáo nhất trí luận tội của đại diện Viện kiểm sát, bài bào chữa của người bào chữa và nói lời sau cùng xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lộc, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lộc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa vắng mặt bị hại ông X. Do ông X đã có đơn xin xét xử vắng mặt nên căn cứ khoản 1 Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị hại.

[3] Lời khai của bị cáo H tại giai đoạn điều tra, truy tố phù hợp với lời khai bị hại, người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 23 giờ ngày 29/11/2023, tại chùa PL, thôn L, xã T, huyện G, tỉnh Hải Dương, Nguyễn Đức H đã có hành vi lén lút trộm cắp số tiền 5.500.000 đồng để trong ví da trên ghế lái xe ô tô biển số: 34A- 247.xx của ông Nguyễn Văn X. H đã chi tiêu cá nhân hết toàn bộ số tiền trên.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân mà còn gây mất trật tự tại địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật hình sự nhưng do cần tiền để tiêu xài nên bị cáo đã cố ý lén lút chiếm đoạt số tiền 5.500.000 đồng của ông X, do đó hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lộc truy tố bị cáo về tội danh và điều luật như trên là đúng pháp luật.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố, bị cáo thành khẩn khai báo, tác động đến gia đình để bồi thường cho bị hại, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo đầu thú nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về nhân thân: Năm 2021 bị cáo đã bị xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản (đã được xóa). Xét thấy cần áp dụng một hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung, cũng như đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng và chống loại tội phạm này.

[6] Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự quy định về hình phạt bổ sung là phạt tiền nhưng do bị cáo không có tài sản, thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã tác động đến gia đình bồi thường cho ông X số tiền 5.500.000 đồng. Ông X không yêu cầu bị cáo bồi thường khoản nào khác nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[8] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật phí và lệ phí, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

[9] Anh Đặng Duy Q là người được H trả số tiền 900.000 đồng là tiền mua thẻ game, tiền giờ sử dụng máy, tiền nước; anh Tăng Hữu P được H trả số tiền 500.000 đồng tiền mua thẻ game; ông Tăng Văn V được H trả số tiền 2.500.000 đồng H đã vay và chị Nguyễn Thị S đã được H nhờ chuyển khoản số tiền 1.500.000 đồng vào tài khoản của H để H chơi game. Anh Q, anh P, ông V và chị S không biết số tiền trên do H trộm cắp mà có nên không đặt vấn đề xử lý đối với anh Q, anh P, ông V và chị S.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự; Điều 135, Điều 136, khoản 1 Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Đức H phạm tội "Trộm cắp tài sản".

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức H 07 (bảy) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 01/12/2023.

2. Về án phí: Bị cáo H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ bản án được giao hoặc niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

150
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản (trộm xe ô tô) số 14/2024/HS-ST

Số hiệu:14/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Lộc - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về