Bản án về tội trộm cắp tài sản số 14/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN BÌNH, TỈNH YÊN BÁI

BẢN ÁN 14/2023/HS-ST NGÀY 13/07/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 7 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Yên Bái, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 18/2023/HS-ST ngày 23 tháng 6 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2023/QĐXXST- HS ngày 28 tháng 6 năm 2023 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn Q, sinh ngày 19 tháng 3 năm 1989 tại M, Yên Sơn, T. Nơi ĐKNKTT tại: Thôn 14, xã M, huyện Yên Sơn, tỉnh T. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Công giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn Ng, sinh năm 1954 (đã chết) và bà Nguyễn Thị Th, sinh năm 1956 (đã chết). Vợ: Nguyễn Thị Ngọc D, sinh năm 1992; Con: Có 02 con, con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2017.

Tiền án: Không. Tiền sự: Không. Nhân thân:

+ Ngày 08-4-2013 bị Chủ tịch UBND xã M, huyện Yên Sơn, tỉnh T quyết định về việc đưa người nghiện Ma túy vào cai nghiện giai đoạn 1 tại xã phường.

+ Ngày 20-10-2020 bị Trưởng Công an huyện Yên Sơn, tỉnh T xử phạt vi phạm hành chính với hình thức phạt tiền 750.000đ về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy.

+ Ngày 12-11-2020 bị Trưởng Công an huyện Yên Sơn, tỉnh T xử phạt vi phạm hành chính với hình thức phạt tiền 1.250.000đ về hành vi Trộm cắp tài sản.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 29-3-2023. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện B, tỉnh Yên Bái. Có mặt.

- Người bị hại:

Anh Đặng Thanh B, sinh năm 1987.

Trú tại: Thôn Ch, xã Vĩnh Kiên, huyện B, tỉnh Yên Bái. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Nguyễn Quang H, sinh năm 1988.

Trú tại: Thôn L, xã Mỹ Bằng, huyện Yên Sơn, tỉnh T. Vắng mặt.

- Những người tham gia tố tụng khác:

- Người làm chứng:

+ Ông Thạch Văn Đ, sinh năm 1967.

Trú tại: Thôn B, xã Vĩnh Kiên, huyện B, tỉnh Yên Bái. Vắng mặt.

+ Anh Nguyễn Quang Th (Nguyễn Văn Gi), sinh năm 1981.

Trú tại: Thôn 12, xã M, huyện Yên Sơn, tỉnh T. Vắng mặt.

+ Chị Trần Thị M, sinh năm 1986.

Trú tại: Thôn T, xã Hán Đà, huyện B, tỉnh Yên Bái. Vắng mặt.

+ Bà Đỗ Thị Ng, sinh năm 1953.

Trú tại: Thôn T, xã Hán Đà, huyện B, tỉnh Yên Bái. Vắng mặt.

+ Anh Đỗ Văn S, sinh năm 1994.

Trú tại: Thôn T, xã Mỹ Bằng, huyện Yên Sơn, tỉnh T. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Từ ngày 08-12-2022 đến ngày 11-12-2022, Nguyễn Văn Q đã hai lần thực hiện hành vi Trộm cắp tài sản:

+ Lần thứ nhất: Vào khoảng 16 giờ ngày 08-12-2022 khi Q đang đi bộ bên phải đường theo hướng Thác Bà- Vĩnh Kiên thì thấy gia đình ông Thạch Văn Đ (thuộc thôn B, xã Vĩnh Kiên, huyện B, tỉnh Yên Bái) có nhiều người đang sửa nhà. Q phát hiện thấy 01 điện thoại di động màu xanh nhãn hiệu HUAWEI NOVA 3i của anh Đặng Thanh B (là thợ sửa mái tôn đang sửa nhà cho ông Thạch Văn Đ) để trên nền hè phía trước cửa nhà ông Đ nên nảy sinh ý định chiếm đoạt. Quan sát thấy mọi người đang làm việc nên Q đi vào vờ giúp đỡ gia đình nhằm chiếm đoạt chiếc điện thoại nêu trên. Trong lúc mọi người đang mải làm việc, không chú ý, Q đã lén lút lấy chiếc điện thoại bỏ vào túi quần rồi rời khỏi nhà ông Thạch Văn Đ. Sau đó Q mang chiếc điện thoại vừa chiếm đoạt được đến bán cho anh Nguyễn Quang H lấy số tiền 500.000đ. Số tiền này Q chi tiêu cho bản thân hết.

Lần thứ hai: Khoảng 09h00 ngày 11-12-2022, Nguyễn Văn Q cùng Nguyễn Quang Th (tên gọi khác: Nguyễn Văn Gi) sang địa phận huyện B, tỉnh Yên Bái chơi. Quá trình tham gia giao thông trên Quốc lộ 37 thuộc xã Hán Đà, huyện B, tỉnh Yên Bái, Q và Th bị Đội Cảnh sát giao thông số 6, phòng Cảnh sát Giao thông Công an tỉnh Yên Bái tạm giữ xe về hành vi vi phạm giao thông. Sau khi bị tạm giữ xe, Q và Th cùng nhau đi bộ theo hường Hán Đà về thị trấn Thác Bà, huyện B, tỉnh Yên Bái. Khoảng 10 giờ 30 cùng ngày khi Q và Th đi bộ đến Cửa hàng tạp hóa của gia đình chị Trần Thị M (thuộc thôn T, xã Hán Đà, huyện B, tỉnh Yên Bái) thì Th đi vào quán để mua nước, Q đứng bên ngoài. Thời điểm này bà Đỗ Thị Ng (mẹ chồng chị Trần Thị M) đang trông quán hộ chị M. Quá trình hỏi mua nước Th quan sát và phát hiện thấy 01 chiếc điện thoại di động mầu đỏ nhãn hiệu OPPO (của chị M) đang để bên trên chiếc loa kéo được đặt sát cửa nhà bên trong quán. Sau khi phát hiện chiếc điện thọai Th nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc điện thoại nên đi ra bảo Q vào lấy chiếc điện thoại nêu trên, Q đồng ý. Sau đó Th tiếp tục vào trong quán hỏi mua nước nhằm đánh lạc hướng của bà Ng để Q đi vào lấy chiếc điện thoại. Sau khi chiếm đoạt được chiếc điện thoại, Q và Th cùng nhau mang đến bán cho anh Đỗ Văn Sđược số tiền 420.000đ. Toàn bộ số tiền này Q và Th chia nhau tiêu sài hết. Đến ngày 14-12-2022, Q và Th quay lại Đội Cảnh sát giao thông số 6, phòng Cảnh sát Giao thông Công an tỉnh Yên Bái để giải quyết việc vi phạm giao thông đã bị xử lý vào ngày 11-12-2022 thì bị chị Trần Thị M phát hiện và trình báo đến Công an xã Hán Đà, huyện B, tỉnh Yên Bái. Cùng ngày sau khi nhận được thông tin về chiếc điện thoại là tài sản trộm cắp anh Đỗ Văn S đã tự giác giao nộp chiếc điện thoại đã mua của Q và Th vào ngày 11-12-2022 cho Công an xã Hán Đà.

Tại Công an xã Hán Đà, Nguyễn Văn Q và Nguyễn Quang Th đã khai nhận toàn bộ hành vi chiếm đoạt chiếc điện thoại của chị Trần Thị M vào ngày 11-12- 2022. Ngoài ra Q còn tự khai ra hành vi chiếm đoạt chiếc điện thoại di động của anh Đặng Thanh B vào ngày 08-12-2022. Đến ngày 15-12-2022 sau khi nhận được thông tin về chiếc điện thoại là tài sản trộm cắp, anh Nguyễn Quang H tự giác giao chiếc điện thoại đã mua của Nguyễn Văn Q vào ngày 08-12-2022 cho Công an xã Hán Đà.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Văn Q khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Tại Biên bản Kết luận định giá tài sản số 14/KL-HĐĐGTS ngày 21-12-2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện B, tỉnh Yên Bái kết luận:

+ Chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu OPPO A1K, mầu đỏ (điện thoại cũ đã qua sử dụng) có giá trị là: 867.000đ; chiếc điện thoại di động nhãn hiệu HUAWEI NOVA 3i, màu xanh (điện thoại cũ đã qua sử dụng) có giá trị là 2.200.000đ.

Bản Cáo trạng số: 20/CT-VKS-YB ngày 23-6-2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh Yên Bái đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn Q về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

+ Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh Yên Bái vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Văn Q về tội Trộm cắp tài sản. Bị cáo đã có hành vi lợi dụng sự sơ hở, mất cảnh giác của chủ sở hữu, lén lút chiếm đoạt tài sản là chiếc điện thoại di động nhãn hiệu HUAWEI NOVA 3i của anh Đặng Thanh B có trị giá 2.200.000đ bán lấy tiền chi tiêu cho bản thân.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Q phạm tội Trộm cắp tài sản.

Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm h, i, r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Tuyên phạt bị cáo Nguyễn Văn Q từ 06 tháng đến 09 tháng tù.

Do bị cáo không có tài sản, nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Đặng Thanh B, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Quang H không có yêu cầu hay đề nghị gì nên không đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

+ Bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi lợi dụng sự sơ hở, mất cảnh giác của chủ sở hữu, lén lút chiếm đoạt tài sản của anh Đặng Thanh B bán lấy tiền chi tiêu cho bản thân.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là sai, là vi phạm pháp luật, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện B, tỉnh Yên Bái, Điều tra viên. Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh Yên Bái, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Về sự vắng mặt của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng. Hội đồng xét xử xét thấy lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng đã có đầy đủ trong hồ sơ vụ án, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu hay đề nghị gì nên việc vắng mặt của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng không làm ảnh hưởng đến việc xét xử. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng là phù hợp theo quy định của pháp luật.

[2]. Về tội danh:

Xem xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa thấy phù hợp với: Biên bản kiểm tra, xác định nơi xảy ra vụ việc, phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận: Ngày 08-12-2022 tại khu vực thuộc thôn Ba Chãng, xã Vĩnh Kiên, huyện B, tỉnh Yên Bái, bị cáo Nguyễn Văn Q đã có hành vi lợi dụng sự sơ hở, mất cảnh giác của chủ sở hữu, lén lút chiếm đoạt 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu HUAWEI NOVA 3i của anh Đặng Thanh B có trị giá 2.200.000đ nhằm mục đích bán lấy tiền chi tiêu cho bản thân, do đó Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh Yên Bái truy tố bị cáo về tội Trộm cắp tài sản quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3].Về tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Xét hành vi của bị cáo Nguyễn Văn Q là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an và an toàn xã hội. Do đó, cần có hình thức xử lý nghiêm minh để giáo dục và phòng ngừa tội phạm.

Xét nhân thân của bị cáo:

Bị cáo Nguyễn Văn Q từng 02 lần bị Công an huyện Yên Sơn, tỉnh T xử phạt vi phạm hành chính (01 lần về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy, 01 lần về hành vi Trộm cắp tài sản) và chưa chấp hành việc xử phạt, 01 lần bị Chủ tịch UBND xã Mỹ Bằng, huyện Yên Sơn, tỉnh T quyết định về việc đưa người nghiện Ma túy vào cai nghiện giai đoạn 1 tại xã phường (Đã nêu ở phần nhân thân, tính đến ngày 11-12-2022 thì thời hiệu thi hành đối với 02 Quyết định xử phạt vi phạm hành chính nêu trên đã hết và tiền sự về áp dụng biện pháp xử lý hành chính đã được xóa).

Bị cáo là người có sức khỏe, có khả năng điều khiển mọi hành vi hoạt động của bản thân, nhận thức được việc chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng thiếu tu dưỡng rèn luyện bản thân, muốn có tiền để phục vụ nhu cầu của bản thân đã cố ý thực hiện tội phạm.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tự khai ra hành vi phạm tội của bản thân, phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, i, r s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy cần phải có mức hình phạt thỏa đáng tương xứng với mức độ phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho xã hội cũng như đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung.

[4]. Về hình phạt bổ sung:

Hội đồng xét xử xét thấy bản thân bị cáo không có tài sản, nghề nghiệp, thu nhập, là đối tượng nghiện chất ma túy. Do đó không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[5]. Đối với anh Nguyễn Quang H là người mua tài sản do bị cáo phạm tội mà có. Quá trình điều tra xác định khi mua các tài sản mà bị cáo đã chiếm đoạt được của anh Đặng Thanh B. Anh Nguyễn Quang H không biết đây là tài sản do bị cáo phạm tội mà có nên Cơ quan điều tra không xử lý đối với anh Nguyễn Quang H là phù hợp.

Đối với hành vi trộm cắp tài sản vào ngày 11-12-2022 của Nguyễn Văn Q và Nguyễn Quang Th. Quá trình điều tra xác định: Tài sản trộm cắp giá trị dưới 2.000.000đ; Nguyễn Văn Q từng 02 lần bị Công an huyện Yên Sơn, tỉnh T xử phạt vi phạm hành chính (01 lần về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy, 01 lần về hành vi Trộm cắp tài sản) và chưa chấp hành việc xử phạt. Tuy nhiên, tính đến ngày 11-12-2022 thì thời hiệu thi hành đối với 02 Quyết định xử phạt vi phạm hành chính nêu trên đã hết; Nguyễn Quang Th từng có 02 tiền án nhưng không thuộc một trong các trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Do đó lần thực hiện hành vi Trộm cắp tài sản vào ngày 11-12-2022 của Nguyễn Văn Q và Nguyễn Quang Th không cấu thành tội Trộm cắp tài sản. Việc Cơ quan điều tra ra quyết định xử lý hành chính với Nguyễn Văn Q và Nguyễn Quang Th là phù hợp nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6]. Về trách nhiệm dân sự:

Quá trình điều tra anh Đặng Thanh B đã nhận lại tài sản do bị cáo chiếm đoạt.

Anh B không có yêu cầu và đề nghị gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Anh Nguyễn Quang H không có yêu cầu và đề nghị gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7]. Về vật chứng trong vụ án:

Quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là anh Đặng Thanh B. Anh B không có yêu cầu đề nghị gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8].Về án phí:

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[9]. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Q phạm tội: Trộm cắp tài sản.

2. Về hình phạt:

Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm h, i, r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Q 08 (tám) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 29-3-2023.

3. Về án phí:

Căn cứ vào khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:

Căn cứ vào các Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

" Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7, 7A, 7B và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

43
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 14/2023/HS-ST

Số hiệu:14/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Bình - Yên Bái
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về