Bản án về tội trộm cắp tài sản số 14/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẤT ĐỎ, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

BẢN ÁN 14/2023/HS-ST NGÀY 05/04/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 05 tháng 4 năm 2023; tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 15/2023/TLST-HS ngày 20 tháng 3 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2023/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 3 năm 2023 đối với bị cáo:

Nguyễn Ngọc B, sinh năm 1984; tại Bà Rịa Vũng Tàu, HKTT và chỗ ở: khu phố P, thị trấn P, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu; nghề nghiệp: Làm biển; trình độ văn hóa: 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; số CCCD/CMND: , con ông Nguyễn Ngọc H, sinh năm: 1960 và bà Phạm Thị T T, sinh năm: 1959; gia đình bị cáo có 04 anh chị em, bị cáo là con thứ ba trong gia đình; bị cáo có vợ Võ Thị T, sinh năm: 1992; bị cáo có 02 người con, con lơn nhất sinh năm 2008, con nhỏ nhất sinh năm 2016.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 13/12/2022, chuyển tạm giam ngày 16/12/2022 (Có mặt).

- Bị hại: Ông Phạm T T, sinh năm 1986, địa chỉ: ấp A, xã L, huyện Đất Đỏ (Có mặt).

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Võ Thị T, sinh năm 1992, địa chỉ: khu phố P, thị trấn P, huyện Đất Đỏ (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 10/5/2022, anh Phạm T T (sinh năm: 1986; trú ấp A, xã L, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu) mua lại 01 tàu đánh cá với giá 300.000.000 đồng để khai thác hải sản, số đăng ký: BV-71092-TS (đặc điểm kỹ thuật của tàu cá: vật liệu vỏ gỗ, chiều dài 14m, chiều rộng 4,1m, chiều cao mạn 1,5m; ký hiệu máy: MITSUBISHI, số máy: 30208, công suất 60CV, nơi chế tạo Nhật Bản). Do anh T không biết lái tàu nên đã hợp tác với vợ chồng của Nguyễn Ngọc B (sinh năm:

1984) và Võ Thị T (sinh năm: 1992) cùng trú: khu phố P, thị trấn P, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu với thoả thuận:

B sẽ làm tài công (thuyền trưởng) lái tàu cá BV-71092-TS cho anh T đi đánh bắt hải sản ngoài biển. Vợ chồng B sẽ lo chi phí xăng, dầu cho tàu cá và tìm bạn ghe (thuyền viên) đi cùng. Sau khi đánh bắt hải sản vào bờ, vợ chồng B sẽ bán hải sản, số tiền có được trừ đi chi phí xăng, dầu, còn lại thì chia theo tỷ lệ: Anh T được 20%, vợ chồng B được 80% (bao gồm tiền vợ chồng B trả cho bạn ghe). Khi B muốn lấy ghe đi đánh bắt hải sản thì phải được sự đồng ý của anh T, nếu chưa được sự đồng ý của anh T thì không được điều khiển tàu cá đi đánh bắt hải sản.

Quá trình hợp tác làm ăn do máy vận hành tàu cá đã cũ nên B nói T thay máy mới để vận hành tàu cá chạy nhanh hơn. Do T không có tiền nên B tự bỏ tiền túi ra thay máy vận hành tàu cá cũ loại MITSUBISHI (số máy: 30208, công suất 60CV) bằng máy vận hành tàu cá mới loại DEAWOO (công suất 100CV) với giá 85.000.000 đồng, còn máy vận hành tàu cá cũ B bán được 15.000.000 đồng cho một người tên chú Ba (chưa rõ nhân thân, lai lịch) ở thị trấn Long Hải, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu.

Trong quá trình làm ăn thua lỗ nên B nảy sinh ý định chiếm đoạt tàu cá của anh T. Vào khoảng 20 giờ ngày 05/8/2022, Nguyễn Ngọc B đến khu vực cảng cá Lộc An lấy tàu cá BV-71092-TS, rồi một mình điều khiển tàu chạy đến khu vực cửa sông Phan Rí Cửa thuộc huyện Tuy Phong, tỉnh B Thuận mà không báo cho anh T biết. Trước khi đi, B đã chuyển các dụng cụ có trên tàu cá BV-71092-TS gồm: 200 tấm lưới loại lưới bắt ghẹ dài 60m, rộng 1,6m; định vị, định dạng, 04 B ắc quy, 02 bộ đàm đến phía sau nhà anh T. Khi đến thị trấn Phan Rí Cửa, B đã dùng sơn xịt lên số đăng ký của tàu cá nhằm tránh bị phát hiện.

Ngày 14/8/2022, anh Phạm T T phát hiện sự việc nên đã lên Công an trình báo. Qua công tác truy tìm, ngày 13/12/2022 Công an huyện Đất Đỏ đã mời được Nguyễn Ngọc B về làm việc. Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đất Đỏ, Nguyễn Ngọc B đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như vừa nêu trên (BL 77 đến 87). Việc B tự ý lấy tàu cá của anh T thì bà Võ Thị Trừ (sinh năm: 1992 – là vợ của B) không biết và không tham gia. Lời khai của B phù hợp với lời khai của bị hại, người liên quan tại các bút lục 88 đến 93, 97 đến 106, 117, 118.

Tang vật, tài sản thu giữ: 01 vỏ tàu đánh cá, vật liệu vỏ gỗ; kích thước: chiều dài 14m, chiều rộng 4,1m, chiều cao mạn 1,5m và 01 máy vận hành của tàu cá, ký hiệu máy: DEAWOO, công suất 100CV (BL 41).

Tại bản kết luận định giá tài sản số 06/KL-HĐĐGTS ngày 30/01/2023 của Hội đồng định giá tài sản huyện Đất Đỏ kết luận: “01 vỏ tàu đánh cá, vật liệu vỏ gỗ; kích thước: chiều dài 14m, chiều rộng 4,1m, chiều cao mạn 1,5m, có giá trị còn lại là 125.000.000 đồng”. (BL 67, 68).

Tại bản kết luận định giá tài sản số 07/KL-HĐĐGTS ngày 30/01/2023 của Hội đồng định giá tài sản huyện Đất Đỏ kết luận: “01 máy vận hành của tàu cá, ký hiệu máy: DEAWOO, trên máy có các dòng chữ nổi: “VALVE CLEAR AICOLD, “0.3MM”, công suất 100CV, có giá trị còn lại là 65.000.000 đồng”. (BL 69, 70).

Tại bản kết luận định giá tài sản số 08/KL-HĐĐGTS ngày 31/01/2023 của Hội đồng định giá tài sản huyện Đất Đỏ kết luận: “01 máy vận hành của tàu cá, ký hiệu máy: MITSUBISHI, số máy: 30208, công suất 60CV, nơi chế tạo Nhật Bản, có giá trị còn lại là 50.000.000 đồng”. (BL 71, 72).

* Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự:

Quá trình làm việc, B đồng ý giao lại máy vận hành DEAWOO (công suất 100CV) cho anh T sử dụng để bồi thường trong thời gian 04 tháng B trộm tàu cá gây thiệt hại cho anh T, B không yêu cầu anh T bồi thường gì về trách nhiệm dân sự đối với máy vận hành tàu cá mới hiệu DEAWOO (công suất 100CV).

Ngày 16/12/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đất Đỏ đã trả lại 01 vỏ tàu đánh cá, vật liệu vỏ gỗ; kích thước: chiều dài 14m, chiều rộng 4,1m, chiều cao mạn 1,5m và 01 máy vận hành của tàu cá, ký hiệu máy: DEAWOO, công suất 100CV cho anh Phạm Thanh T. Hiện anh T đã nhận lại tài sản và không yêu cầu B bồi thường về trách nhiệm dân sự, anh T đã làm đơn bãi nại xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho B. (BL 58, 59) Quá trình điều tra, B không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ B đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đã tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả cho bị hại, bị hại đã làm đơn bãi nại, xin giảm nhẹ hình phạt cho B.

Tại bản Cáo trạng số 16/CT-VKSĐĐ ngày 20/3/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đất Đỏ đã truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc B về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố sau khi tranh luận vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc B về tội “Trộm cắp tài sản” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc B từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù. Về xử lý vật chứng: Đã xử lý xong. Về trách nhiệm dân sự: Không.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố; không tranh luận, chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt. Bị hại có đơn bãi nại và đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra huyện Đất Đỏ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đất Đỏ trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo, bị hại không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với chính lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của bị hại và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Khoảng 20 giờ ngày 05/8/2022, tại khu vực cảng cá xã Lộc An, huyên Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu, Nguyễn Ngọc B đã có hành vi lén lút trộm cắp được của anh Phạm T T 01 vỏ tàu đánh cá, vật liệu vỏ gỗ; kích thước: chiều dài 14m, chiều rộng 4,1m, chiều cao mạn 1,5m trị giá 125.000.000 đồng. Hành vi của bị cáo Nguyễn Ngọc B đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

[3] Xét thấy, bị cáo là thanh niên có sức khỏe, bị cáo lợi dụng sơ hở để trộm cắp tài sản. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương. Vì vậy, cần tuyên một mức án tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo để giáo dục riêng, đồng thời bảo đảm phòng ngừa tội phạm chung. Tuy nhiên, xét thấy trong quá trình điều tra, xét xử vụ án, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả cho bị hại, bị hại đã làm đơn bãi nại, xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên xem xét áp dụng điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự giảm nhẹ một phần mức hình phạt cho bị cáo.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Không. [5] Về xử lý vật chứng:

- Ngày 16/12/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đất Đỏ đã trả lại 01 vỏ tàu đánh cá, vật liệu vỏ gỗ, kích thước dài 14 m, rộng 4,1 m, cao 1,5 m và 01 máy vận hành của tàu cá, ký hiệu máy DEAWOO, công suất 100CV cho ông Phạm Thanh T là đúng quy định pháp luật.

[6] Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Ngọc B phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự 2015, xử phạt:

Nguyễn Ngọc B 03 (Ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 13/12/2022.

Về trách nhiệm dân sự: Không.

Về xử lý vật chứng: Không.

Về án phí: p dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Ngọc B phải nộp 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều: 331, 333, 336 và Điều 337 Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo và Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp có quyền kháng nghị bản án trong thời hạn 15 ngày, Viện kiểm sát nhân dân cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày tuyên án (Ngày 05/4/2023); đương sự không có mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưởng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

54
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 14/2023/HS-ST

Số hiệu:14/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đất Đỏ - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về