Bản án về tội trộm cắp tài sản số 14/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 14/2021/HS-ST NGÀY 23/04/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 23 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 14/2021/TLST-HS ngày 25 tháng 3 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2021/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 4 năm 2021, đối với bị cáo: Đặng Văn T, sinh năm 1987; nơi sinh: huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang;

Nơi cư trú: ấp B, xã B, huyện C, tỉnh An Giang;

Nghề nghiệp: không;

Trình độ văn hoá (học vấn): không;

Dân tộc: Kinh;

Giới tính: Nam;

Tôn giáo: Đạo Phật;

Quốc tịch: Việt Nam;

Con ông Đặng Văn N và bà Nguyễn Thị T;

Tiền án: Ngày 15/5/2020, bị Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xử phạt 10 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong ngày 19/12/2020;

Tiền sự: không.

Nhân thân: Từ nhỏ sống chung cha mẹ, không được đi học. Năm 2009, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang đưa vào cơ sở giáo dục Bến Giá, tỉnh Trà Vinh, thời hạn 24 tháng về hành vi trộm cắp tài sản, chấp hành xong năm 2010.

Bị tạm giữ, tạm giam ngày 11/3/2021 đến nay;

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Ông Đặng Văn N, sinh năm 1959; nơi cư trú: ấp B, xã B, huyện C, tỉnh An Giang; vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

+ Ông Huỳnh Văn H, sinh năm 1980; nơi cư trú: ấp Đ, xã M, huyện C, tỉnh An Giang; vắng mặt;

+ Ông Nguyễn Văn Tuấn V, sinh năm 1990; nơi cư trú: ấp B, xã B, huyện C, tỉnh An Giang; vắng mặt.

- Người làm chứng: Nguyễn Văn T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 23/12/2020, Đặng Văn T (đã bị kết án về tội trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích), đi bộ ngang nhà của ông Đặng Văn N (Bác ruột của T) tại tổ 8, ấp B, xã B, huyện C, phát hiện trên giường phía trước nhà của N có 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J5 prime, màu trắng - hồng đang cắm sạc, không người trông giữ, nên T đi vào trong nhà lén lấy trộm điện thoại của N để vào túi quần bên phải, rồi đem bán cho Nguyễn Văn Tuấn V, với giá 600.000đồng, tiêu xài cá nhân hết. Riêng, N sau khi phát hiện điện thoại bị mất trộm, trình báo công an xã B. Ngày 06/01/2021, T đến Công an xã B đầu thú, khai nhận hành vi phạm tội.

Vật chứng: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J5 prime, màu trắng - hồng, đã trả lại cho Đặng Văn N.

Theo Kết luận định giá tài sản số 02/KL-HĐĐG.TTHS ngày 12/01/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Chợ Mới: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J5 prime, màu trắng - hồng, trị giá 1.000.000đồng.

Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Chợ Mới ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự và Quyết định khởi tố bị can đối với Đặng Văn T về hành vi “Trộm cắp tài sản”, áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, nhưng T bỏ trốn, đến ngày 11/3/2021 bị bắt theo quyết định truy nã, bị tạm giam để điều tra.

Tại bản cáo trạng số 14/CT-VKSCM ngày 25 tháng 3 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới đã truy tố bị cáo Đặng Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng truy tố, không tranh luận với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Kiểm sát viên trình bày lời luận tội: Giữ nguyên Quyết định truy tố bị cáo Đặng Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo từ 06 đến 09 tháng tù về tội trộm cắp tài sản; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; về dân sự người bị hại không yêu cầu bồi thường nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận đã thực hiện chiếm đoạt tài sản người bị hại. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, truy tố; phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác được lưu trong hồ sơ vụ án. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Bị cáo Đặng Văn T đã bị kết án về tội trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích, đã thực hiện lén lút chiếm đoạt tài sản, theo kết quả định giá là l.000.000 đồng nên hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” là hoàn toàn đúng người, đúng tội và phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng về hành vi của bị cáo nhận thấy:

[3.1] Quyền sở hữu là một trong những quyền cơ bản của mỗi công dân được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Để sở hữu được tài sản, người lao động phải trải qua quá trình lao động vất vả mới tạo lập được. Cho nên, những ai xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác sẽ bị áp dụng chế tài nghiêm khắc là hình phạt.

[3.2] Bị cáo đang ở độ tuổi lao động, lẽ ra, phải rèn luyện bản thân thành một công dân có ích, tích cực lao động để tạo lập tài sản chính đáng cho bản thân nhưng chỉ vì hám lợi, lười lao động, muốn nhanh chóng có được tài sản mà không phải tốn công sức lao động nhiều nên bị cáo đã thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác, xâm phạm trật tự quản lý của Nhà nước mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương; gây tâm lí hoang mang trong quần chúng nhân dân, ảnh hưởng đến cuộc sống, tâm lí của người dân, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân. Do đó, cần có hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để đảm bảo tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra người bị hại ông Đặng Văn N có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và tại phiên tòa hôm nay đã xác định được: bị cáo đã đầu thú, tỏ rõ thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên có xem xét cho bị cáo khi quyết định hình phạt; Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung, do bị cáo có thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại ông Đặng Văn N không yêu cầu bị cáo bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Bị cáo Đặng Văn T lấy trộm điện thoại đem bán cho ông Nguyễn Văn Tuấn V, ông V mua điện thoại do T bán rồi bán lại cho ông H. ông V, ông H không biết điện thoại là do trộm cắp mà có, nên Cơ quan điều tra không xử lý. Ông H đã tự nguyện nộp cho cơ quan điều tra, không yêu cầu trả lại tiền nên không xét.

[8] Về xử lý vật chứng: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J5 prime, màu trắng - hồng, trong quá trình điều tra đã trả lại cho ông Đặng Văn N.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Tuyên bố bị cáo Đặng Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”

Xử phạt: Bị cáo Đặng Văn T 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt của bị cáo được tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam ngày 11/3/2021 (Ngày mười một tháng ba năm hai nghìn không trăm hai mươi mốt).

2. Về dân sự: Bị hại ông Đặng Văn N không yêu cầu bị cáo bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.

3. Về án phí: Căn cứ các Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 của y ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Đặng Văn T phải chịu 200.000đồng (Bằng chữ: Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

164
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 14/2021/HS-ST

Số hiệu:14/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về