Bản án về tội trộm cắp tài sản số 136/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VĨNH YÊN - TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 136/2021/HS-ST NGÀY 26/10/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 10 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 114/2021/HSST ngày 18 tháng 8 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 129/2021/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:

Ngô Đức T,sinh ngày 04 tháng 10 năm 1985 tại Phú Thọ; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Khu A, xã Đông Lĩnh, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Bá T và bà Tống Thị T; có vợ là Trần Thị H (đã ly hôn) và có 01 con; tiền án: 03. Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 177/2011/HSST ngày 22/7/2011 của Toà án nhân dân quận Long Biên, thành phố Hà Nội xử phạt Ngô Đức T 18 tháng tù cho hưởng án treo, thời hạn thử thách là 36 tháng về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; án phí HSST 200.000đ. T đã thi hành xong khoản án phí ngày 17/10/2011; Tại Bản án số 338/2013/HSST ngày 26/12/2013 của Tòa án nhân dân quận Ba Đình, thành phố Hà Nội xử phạt Ngô Đức T 18 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, 24 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”. Tổng hợp hình phạt 18 tháng tù cho hưởng án treo của Bản án hình sự sơ thẩm số 177/2011/HSST ngày 22/7/2011 của Toà án nhân dân quận Long Biên, thành phố Hà Nội, buộc T phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 60 tháng tù; buộc bồi thường 18.000.000đ cho bị hại là anh Nguyễn Văn H,án phí HSST 200.000đ; án phí DSST 200.000đ. Ngày 20/8/2015, T đã thi hành xong án phí HSST theo biên lai thu số 765; ngày 11/9/2015, thi hành xong án phí DSST theo biên lai thu số 776. Đối với khoản bồi thường dân sự, bị hại không có đơn yêu cầu đến nay đã hết thời hiệu yêu cầu thi hành án; Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 109/2014/HSST ngày 18/4/2014 của Toà án nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội xử phạt Ngô Đức T 48 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”. Tổng hợp hình phạt của bản án này với hình phạt 60 tháng tù của bản án số 338/2013/HSST ngày 26/12/2013 của Tòa án nhân dân quận Ba Đình, thành phố Hà Nội, bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 9 năm tù; án phí HSST 200.000đ; án phí DSST 1.500.000đ. Ngày 29/4/2020, chấp hành xong án phạt tù, ngày 18/4/2014T thi hành xong khoản án phí HSST theo Biên lai thu số 5642, ngày 10/7/2014thi hành xong án phí DSST theo biên lai thu 0000057, đến nay chưa được xoá án tích; tiền sự: không; nhân thân: Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính ngày 29/8/2013 của Công an quận Ba Đình, thành phố Hà Nội xử phạt vi phạm hành chính với mức phạt 1.500.000đ về hành vi sửa chữa chứng minh thư nhân dân. Quá trình điều tra xác định, T không nhận được Quyết định xử phạt vi phạm hành chính và không được đôn đốc thi hành, tính đến thời điểm phạm tội đã hết thời hiệu thi hành; Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính ngày 13/03/2014 của Công an quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội xử phạt vi phạm hành chính với mức phạt 750.000đ về hành vi sửa chữa chứng minh thư nhân dân. Quá trình điều tra xác định, T không nhận được Quyết định xử phạt vi phạm hành chính và không được đôn đốc thi hành, tính đến thời điểm phạm tội đã hết thời hiệu thi hành; Tại Bản án số 78/2021/HSST ngày 25/5/2021 của Tòa án nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội xử phạt Ngô Đức T 05 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, án phí 200.000đ. Bị cáo hiện đang chấp hành án tại Trại giam Thanh Lâm – tỉnh Thanh Hóa (có mặt).

Bị hại:Anh Đỗ Xuân T, sinh năm 1996; trú tại: Thôn N, xã Yên Bình, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 20 phút ngày 04/1/2021, Ngô Đức T một mình bắt xe bus từ huyện Mê Linh lên thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, đi loanh quanh dọc đường Mê Linh hướng Việt Trì đi Hà Nội để tìm xe máy sơ hở trộm cắp. Khi đi đến gần trước cửa nhà số 262 đường Mê Linh, phường Liên Bảo (là địa chỉ của Công ty Cổ phần và thương mại Labago) T phát hiện xe mô tô nhãn hiệu Airblade, màu sơn đen, BKS 88L1-280.09 của anh Đỗ Xuân T được để cùng với nhiều xe máy khác theo chiều đầu xe hướng vào trong nhà, đuôi xe hướng ra đường Mê Linh không có ai trông giữ. Thấy vậy, T đi bộ nhanh đến vị trí bên trái mô tô của anh Đỗ Xuân T, ngồi ghếch mông lên yên xe rồi dùng tay phải lấy 01 vam phá khóa kim loại hình chữ “T” đúc sẵn trong túi áo khoác bên phải chọc vào ổ khóa điện xe rồi vặn mạnh theo chiều kim đồng hồ để bật mở khóa điện. Thấy đồng hồ báo sáng đèn, T ngồi lên xe dùng 2 chân đẩy lùi, vòng xe quay đầu ra đường Mê Linh rồi đề nổ máy tăng ga bỏ chạy về hướng huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội. Ngày 07/01/2021, T chưa kịp tiêu thụ xe thì bị Công an huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội thu giữ trong một vi phạm khác trên địa bàn huyện Đông Anh.

Ngày 14/3/2021, anh Đỗ Xuân T đến Cơ quan Công an thành phố Vĩnh Yên trình báo việc mình bị mất chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Airblade mang BKS 88L1-280.09.

Quá trình điều tra, Ngô Đức T đã khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản của bản thân ngày 04/01/2021 tại trước cửa ngôi nhà số 262 đường Mê Linh, phường Khai Quang như đã nêu.

Ngày 18/3/2021, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Vĩnh Yên có văn bản số 56 đề nghị Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Vĩnh Yên định giá đối với: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade, màu sơn đen, BKS: 88L1-280.09, xe đã cũ, đã qua sử dụng. Ngày 19/3/2021, Hội dồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự của UBND thành phố Vĩnh Yên có Kết luận định giá số 47/KL-HĐĐG kết luận: Trị giá của chiếc xe nêu trên là 19.500.000đ (Mười chín triệu năm trăm nghìn đồng).

Về dân sự và xử lý vật chứng: Quá trình điều tra xác định, chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade, màu sơn đen, BKS: 88L1-280.09 mà Ngô Đức T trộm cắp là tài sản hợp pháp của anh Đỗ Xuân T nên ngày 23/6/2021 Cơ quan CSĐT – Công an thành phố Vĩnh Yên trả cho anh T tài sản trên. Anh T đã nhận lại tài sản và không có ý kiến đề nghị gì Tại bản Cáo trạng số: 119/CT-VKSTP.VY ngày 16 tháng 8 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Yên - tỉnh Vĩnh Phúc đã truy tố bị cáo Ngô Đức T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Ngô Đức T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Ngô Đức T và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Ngô Đức T từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù. Tổng hợp hình phạt 5 năm tù của Bản án số 78/2021/HSST ngày 25/5/2021 của Tòa án nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Bị cáo không bào chữa và tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp [2]. Bị cáo Ngô Đức T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Yên đã truy tố. Xét lời nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại và những tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án được thu thập khách quan, đúng pháp luật, có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 13 giờ 50 phút ngày 04/01/2021, tại cửa nhà số 262 đường Mê Linh, phường Khai Quang, thành phố Vĩnh Yên, Ngô Đức T lợi dụng sơ hở của chủ quản lý tài sản đã thực hiện hành vi trộm cắp 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Airblade mang BKS: 88L1-280.09 của anh Đỗ Xuân T. Trị giá tài sản trộm cắp theo kết luận định giá là 19.500.000đ (Mười chín triệu năm trăm nghìn đồng).

Ngô Đức T có 03 tiền án, đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên lần phạm tội này bị coi là “Tái phạm nguy hiểm”.Vì vậy, hành vi lén lút chiếm đoạt chiếc xe máy Honda Airblade trị giá 19.500.000đ của Ngô Đức T đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” với tình tiết định khung tăng nặng là tái phạm nguy hiểm theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 BLHS, có khung hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

Việc Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Yên truy tố bị cáo Ngô Đức T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và không oan.

[3]. Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của cá nhân được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an và gây bất bình trong quần chúng nhân dân, do vậy cần xử lý nghiêm minh để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4]. Xét nhân thân cũng như tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy rằng: Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ, nhận thức được hành vi của mình là phạm pháp song do lối sống buông thả, tham lam tư lợi nên bất chấp hậu quả để thực hiện hành vi phạm tội. Bản thân bị cáo là người có nhân thân xấu, đã có 3 tiền án, 2 lần bị xử phạt hành chính và ngày 25/5/2021 bị Tòa án nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội xử phạt 05 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học sửa đổi bản thân mà tiếp tục phạm tội. Điều đó chứng tỏ sự bất chấp, coi thường pháp luật của bị cáo nên cần phải xử lý nghiêm mới đảm bảo tác dụng răn đe và phòng ngừa chung. Tuy nhiên khi xem xét lượng hình, Hội đồng xét xử xét thấy, tại cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, bố bị cáo là người có công với cách mạng, là thương binh nên Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng những tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật, yên tâm cải tạo. Mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo là có căn cứ, cần chấp nhận.

[5]. Về trách nhiệm dân sự: Sau khi sự việc xảy ra, anh Đỗ Xuân T đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng không có nghề nghiệp, không có thu nhập, không có tài sản riêng nên Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7]. Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra xác định, chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade, màu sơn đen, BKS: 88L1-280.09 mà Ngô Đức T trộm cắp là tài sản hợp pháp của anh Đỗ Xuân T nên ngày 23/6/2021 Cơ quan CSĐT – Công an thành phố Vĩnh Yên trả cho anh T tài sản trên là phù hợp quy định pháp luật.

[8]. Về án phí: bị cáo Ngô Đức T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ nêu trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Ngô Đức T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 55, khoản 1 Điều 56 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Ngô Đức T 03 (ba) năm tù. Tổng hợp hình phạt 05 (năm) năm tù của Bản án số 78/2021/HSST ngày 25/5/2021 của Tòa án nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 08 (tám) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam của Bản án số 78/2021/HSSt ngày 25/5/2021 của Tòa án nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội (ngày 08/01/2021).

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Ngô Đức T phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được giao hoặc niêm yết bản án theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

148
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 136/2021/HS-ST

Số hiệu:136/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về