Bản án về tội trộm cắp tài sản số 136/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CAO BẰNG, TỈNH CAO BẰNG

BẢN ÁN 136/2021/HS-ST NGÀY 28/09/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 9 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 139/2021/HSST ngày 14 tháng 9 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 218/2021/QĐXXST- HS ngày 15/9/2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Văn D; Tên gọi khác: Không có; Giới tính: Nam; Sinh ngày: 19/8/1992 tại Thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng; Chỗ ở hiện nay: Tổ 03, phường S, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 3/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Nùng; Tôn giáo: Không; Chức vụ đoàn thể trước khi phạm tội: Không; Họ tên cha: Lê Văn C (sinh năm 1958; Hộ khẩu thường trú: Thôn Nội Doanh, xã Đông Ninh, huyện K, tỉnh Hưng Yên); Họ tên mẹ: Trần Thị L (sinh năm 1962; Hộ khẩu thường trú: Tổ a, phường S, thành phố C, tỉnh Cao Bằng); Anh chị em ruột: Gia đình có 3 anh em, bị cáo là con thứ hai trong gia đình; Vợ: Lương Thị H (Sinh năm 1995; Hộ khẩu thường trú: Tổ 01, phường D, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng); Con: Không; Tiền án: Không; Tiền sự: có 01 tiền sự ngày 05/10/2020: Công an huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Trộm cắp tài sản; Đặc điểm nhân thân: Năm 2008 Công an phường Sông Bằng, thành phố Cao Bằng ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi gây rối trật tự công cộng; Bị cáo Lê Văn D hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Cao Bằng từ ngày 03/8/2021 đến nay; Có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Công ty TNHH xuất nhập khẩu và đầu tư chợ gỗ Tài Anh Đại diện theo pháp luật: Hà T Anh – Chức vụ: Giám đốc.

Đại diện theo ủy quyền: Hà Trung H – Chỉ huy trưởng công trường. Địa chỉ: Số 16 phố T, phường N, thành phố N, tỉnh Ninh Bình; Vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Đàm Minh T - sinh năm 1984 Địa chỉ: Tổ 3, phường S, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng; Vắng mặt;

- Người làm chứng:

1. Trần Thị B Địa chỉ: Tổ 02, phường S, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng; Vắng mặt;

2. Nguyễn Văn T Địa chỉ: Tổ b, phường B, quận K, thành phố Hải Phòng; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ ngày 13/5/2021, Lê Văn D (sinh năm 1992; Chỗ ở: Tổ 03, phường S, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng) đi từ nhà ra khu vực siêu thị FPT thuộc phường S, thành phố Cao Bằng rủ một người đàn ông tên T (địa chỉ: xã Hà Trì, huyện H, tỉnh Cao Bằng) đi trộm cắp sắt. T đồng ý và điều khiển xe máy chở D từ siêu thị FPT đi đến nơi tập kết vật liệu của Công trình bờ kè phải Sông Hiến thuộc tổ 03, phường H, thành phố Cao Bằng. Khi đến nơi, D bảo T nổ máy xe sẵn đợi ở ngoài, còn D vượt qua hàng rào bằng lưới thép B40, cao khoảng 60cm để vào nơi tập kết vật liệu lấy được 01 (một) bó sắt mang ra chỗ T đứng đợi. Khi vừa đặt được bó sắt lên xe máy thì bị Hà Trung H (sinh năm 1972) là Chỉ huy trưởng của Công trình bờ kè phải Sông Hiến phát hiện, đuổi theo nên D bỏ chạy, T cũng phóng xe máy đi nên bó sắt bị rơi lại. D chạy đến trước cửa Công an phường Hợp Giang thì bị Nguyễn Văn T (sinh năm 1974) là công nhân làm việc tại công trình bờ kè phải Sông Hiến đuổi kịp và bắt giữ. Công an phường Hợp Giang lập biên bản phạm tội quả tang về hành vi trộm cắp tài sản của D và thu giữ bó sắt gồm 10 (mười) thanh sắt phi 18, chiều dài mỗi thanh 1,25m được uốn thành hình chữ “ V ”, có khối lượng 23kg. Trước đó, khoảng 12 giờ ngày 12/5/2021, Lê Văn D đã rủ Đàm Minh T (sinh năm 1984; hộ khẩu thường trú: Tổ 3, phường S, thành phố Cao Bằng) đến trộm cắp sắt tại nơi tập kết vật liệu của công trình bờ kè phải Sông Hiến thuộc tổ 3, phường H, thành phố Cao Bằng được 01 (một) bó sắt phi 14 có khối lượng 19kg. D và T đem đến điểm thu mua phế liệu của bà Trần Thị B (sinh năm 1988) tại tổ 2, phường S, thành phố Cao Bằng bán được 145.000đ (một trăm bốn mươi lăm nghìn đồng) lấy tiền mua ma túy sử dụng hết.

Quá trình điều tra, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng đã yêu cầu tra cứu tiền án, tiền sự đối với Lê Văn D và Đàm Minh T. Tại trích lục tiền án, tiền sự số 5552/PV06 ngày 16/8/2021 của Phòng hồ sơ Công an tỉnh Cao Bằng xác định: Lê Văn D có 01 tiền sự về hành vi Trộm cắp tài sản chưa đủ thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 158/QĐ - XPHC ngày 05/10/2020 của Công an huyện Hoà An. Tại thông báo số 4046/PV06 ngày 28/5/2021 của Phòng hồ sơ Công an tỉnh Cao Bằng xác định Đàm Minh T chưa có tiền án, tiền sự về hành vi chiếm đoạt tài sản.

Ngày 21/5/2021 và ngày 07/6/2021 cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng ban hành Yêu cầu định giá tài sản đối với vật chứng vụ án. Tại bản kết luận định giá tài sản số 36 ngày 26/5/2021 và số 40 ngày 09/6/2021 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng kết luận: 10 (mười) thanh sắt phi 18, chiều dài 1,25m, tổng trọng lượng 23kg do Lê Văn D trộm cắp ngày 13/5/2021 có giá trị 325.000 đồng (Ba trăm hai lăm nghìn đồng); 19kg sắt vụ do Lê Văn D trộm cắp ngày 12/5/2021 có giá trị 152.000 đồng (Một trăm năm hai nghìn đồng). Tổng giá trị tài sản Lê Văn D đã trộm cắp là 477.000 (Bốn trăm bảy mươi bảy nghìn đồng ) .

Đối với 10 (mười) thanh sắt phi 18 có khối lượng 23kg do Lê Văn D trộm cắp ngày 13/5/2021, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng đã tiến hành trả lại cho chủ sở hữu là Hà Trung H - Chỉ huy trưởng của Công trình bờ kè phải Sông Hiến.

Tại cơ quan điều tra bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng số: 136/CTr-VKSTP ngày 14/9/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng đã truy tố. Tại phiên tòa bị cáo cho rằng Cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố là đúng người, đúng tội, bị cáo không thay đổi lời khai và không khai thêm nội dung gì khác.

Trong bản luận tội, vị đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo. Đề nghị áp dụng: điểm a khoản 1 Điều 173; Điều 38; điểm s, i khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Lê Văn D phạm tội Trộm cắp tài sản; Đề nghị xử phạt bị cáo mức án từ 9 (chín) tháng đến 12 (mười hai) tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về vật chứng xử theo quy định của pháp luật.

Trong phần tranh luận: Bị cáo không có gì cần tranh luận với phần luận tội của Viện kiểm sát.

Bị hại vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có đơn xin xét xử vắng mặt và thể hiện ý kiến về phần trách nhiệm dân sự không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thiệt hại; Về trách nhiệm hình sự đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa, nhưng do bị hại không có yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản nên không buộc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và bị cáo phải có trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại cho người bị hại.

Phần nói lời sau cùng: Bị cáo tỏ ra ăn năn, hối cải và xin được hưởng sự khoan hồng của pháp luật, được hưởng mức án nhẹ nhất.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố Cao Bằng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Các yếu tố cấu thành tội phạm:

Về mặt khách quan: Bị cáo Lê Văn D do nghiện ma túy nên để có tiền sử dụng ma túy cho bản thân, bị cáo đã có hành vi trộm cắp tài sản, với giá trị tài sản do bị cáo trộm cắp là 477.000 (Bốn trăm bảy mươi bảy nghìn đồng). Như vậy, có thể thấy rằng hành vi của bị cáo đã xâm phạm tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ.

Về mặt chủ quan của tội phạm: Trong vụ án này, bị cáo nhận thức được việc thực hiện hành vi trộm cắp tài sản là vi phạm pháp luật và bị pháp luật trừng trị nhưng vì để thỏa mãn cơn nghiện ma túy của bản thân bị cáo đã bất chấp thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý.

Về mặt khách thể: Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác được pháp luật. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất an ninh, trật tự tại địa phương, gây hoang mang, gây bức súc trong quần chúng nhân dân và làm gia tăng thêm tệ nạn xã hội tại địa phương.

Về mặt chủ thể: Căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, bị cáo đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, đủ năng lực nhận thức, năng lực hành vi. Do đó, bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và phải chịu trách nhiệm về hành vi phạm tội do mình gây ra.

Về tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi bị cáo: Hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội.

Từ những phân tích trên đây, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản.

Tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng đã truy tố, lời khai của bị cáo phù hợp lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với Biên bản bắt người quả tang và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án; Về giá trị tài sản bị thiệt hại do bị cáo trộm cắp 477.000 (Bốn trăm bảy mươi bảy nghìn đồng), chưa đến mức 2.000.000đ là mức khởi điểm của số tiền bị truy tố đối với tội trộm cắp tài sản; Nhưng do bị cáo đã có một tiền sự về hành vi chiếm đoạt tài sản chưa hết thời gian được coi là chưa bị xử phạt hành chính. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng truy tố bị cáo Lê Văn D về tội Trộm cắp tài sản theo điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 là có cơ sở, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 như sau:

“Điều 173. Tội trộm cắp tài sản:

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a. Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;

…”.

Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, có trình độ hiểu biết, bị cáo ý thức được việc thực hiện hành vi Trộm cắp tài sản sẽ bị pháp luật trừng trị nhưng bị cáo đã bất chấp tất cả để thực hiện hành vi phạm tội vì mục đích để có tiền mua ma túy thỏa mãn cơn nghiện ma túy của bản thân. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội và cần có hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Trường hợp này cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới đủ để răn đe và giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.

[3] Xét nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo:

Qua xem xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy:

Bị cáo là người có nhân thân xấu, đã bị xử phạt hành chính nhiều lần nhưng bị cáo không chịu tu dưỡng rèn luyện bản thân để trở thành người có ích cho gia đình và xã hội mà bị cáo ham chơi, đua đòi, lâm vào cảnh nghiện ma túy dẫn đến có hành vi phạm tội. Điều này cho thấy về ý thức chấp hành pháp luật của bị cáo là không tốt, nên khi lượng hình Hội đồng xét xử cũng cần cân nhắc đến nhân thân của bị cáo mà đưa ra mức án tương xứng với hành vi do bị cáo gây ra.

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s, i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 173; Điều 38; điểm s, i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Tuyên bố bị cáo Lê Văn D phạm tội "Trộm cắp tài sản"; Xử phạt bị cáo với mức án từ 9 (chín) tháng đến 12 (mười hai) tháng tù; Không áp dụng hình phạt bổ sung; Về xử lý vật chứng: Xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Hội đồng xét xử xét thấy mức đề nghị về hình phạt trên là phù hợp với quy định của pháp luật, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi bị cáo thực hiện nên cần chấp nhận.

[4]. Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên không đặt ra để xem xét.

luật.

[5] Về xử lý vật chứng:

Vật chứng đã được xử lý tại cơ quan điều tra.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp - Đối với người đàn ông tên T, theo lời khai của Lê Văn D nhà T Hà Trì, huyện Hoà An, tỉnh Cao Bằng. Quá trình điều tra, xác minh tại địa phương này không có đối tượng tên T nên cơ quan Cảnh sát điều tra không có đủ căn cứ để làm rõ trong vụ án này.

- Đối với Đàm Minh T, quá trình điều tra xác định chưa có tiền án, tiền sự về hành vi chiếm đoạt tài sản, giá trị tài sản trộm cắp chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Do vậy, ngày 07/9/2021 Công an thành phố Cao Bằng đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản bằng hình thức phạt tiền đối với Đàm Minh T.

- Đối với hành vi của Trần Thị B, quá trình điều tra xác định B không biết tài sản khi mua bán với Lê Văn D là do trộm cắp mà có. Do vậy, cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý đối với Trần Thị B.

Việc xử lý hành chính của cơ quan điều tra là đúng theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn D phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng: điểm a khoản 1 Điều 173; Điều 38; điểm s, i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

- Xử phạt bị cáo Lê Văn D mức án 9 (chín) tháng tù; Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt để tạm giam (ngày 03/8/2021).

[2] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Xử buộc bị cáo Lê Văn D phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung công quỹ nhà nước.

[3] Về quyền kháng cáo: Bị cáo Lê Văn D được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; Công ty TNHH xuất nhập khẩu và đầu tư chợ gỗ Tài Anh và ông Đàm Minh T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 136/2021/HS-ST

Số hiệu:136/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cao Bằng - Cao Bằng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về