Bản án về tội trộm cắp tài sản số 135/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 135/2021/HS-ST NGÀY 25/11/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 11 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Tân Bình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 159/2021/TLST-HS ngày 04 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 242/2021/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 11 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Thạch Thu H, sinh năm 1991 tại Tp. Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú: phường A, quận B, Tp. Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Thạch G (chết) và bà: Bùi Thị T1, sinh năm 1957; có chồng: Nguyễn Hữu C, sinh năm 1991 và 03 người con: lớn nhất sinh năm 2010, nhỏ nhất sinh năm 2020; tiền án:

- Bản án số 226/2011/HSST ngày 22/9/2011 Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Tp. Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”,

- Bản án số 19/2014/HSST ngày 08/4/2014 Tòa án nhân dân huyện Nhà Bè, Tp. Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”,

- Bản án số 94/2014/HSST ngày 13/8/2014 Tòa án nhân dân Quận 6, Tp. Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, Tổng hợp hình phạt với hình phạt 03 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” của Bản án số 226/2011/HSST ngày 22/9/2011 Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Tp. Hồ Chí Minh và hình phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 19/2014/HSST ngày 08/4/2014 Tòa án nhân dân huyện Nhà Bè, Tp. Hồ Chí Minh. Buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của 03 bản án là 09 năm tù, chấp hành xong hình phạt tù ngày 02/12/2019; tiền sự: không; tạm giữ, tạm giam: 11/5/2021. Có mặt.

2. Nguyễn Thị Phương T, sinh năm 1995 tại Tp. Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú: Phường C, quận D, Tp. Hồ Chí Minh; chỗ ở: phường E, quận F, Tp. Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Hữu H, sinh năm 1969 và bà: Bùi Thị C, sinh năm 1974; có chồng: Hà Bảo T, sinh năm 1988 và 04 con: lớn nhất sinh năm 2014, nhỏ nhất sinh năm 2021; tiền án:

- Bản án số 105/2011/HSST ngày 14/8/2014 Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận, Tp. Hồ Chí Minh xử phạt 05 năm 06 tháng tù về tội “Cướp tài sản”, - Bản án số 41/2015/HSST ngày 26/02/2016 Tòa án nhân dân quận Tân Phú xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tổng hợp hình phạt 05 năm 06 tháng tù tại Bản án số 105/2011/HSST ngày 14/8/2014 Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận, Tp. Hồ Chí Minh, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 06 năm 06 tháng tù, chấp hành xong bản án ngày 18/02/2020; tiền sự: không; bị bắt, tạm giữ ngày: 12/5/2021, thay đổi biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh ngày 14/5/2021. Bị cáo tại ngoại. Có mặt.

- Bị hại:

1. Chị Phạm Thị Thanh H1, sinh năm 1980, nơi cư trú: Phường I, quận K, Tp. Hồ Chí Minh. Vắng mặt.

2. Anh Phạm Minh H2, sinh năm 1981, nơi cư trú: Phường I, quận K, Tp. Hồ Chí Minh. Vắng mặt.

3. Anh Vũ Hồng T2, sinh năm 1977, nơi cư trú: Phường I, quận K, Tp. Hồ Chí Minh. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Chị Thạch Thu H2, sinh năm 1989, nơi cư trú: phường A, quận B, Tp. Hồ Chí Minh. Vắng mặt.

2. Anh Nguyễn Anh T, sinh năm 1985, nơi cư trú: phường A1, quận B, Tp. Hồ Chí Minh. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trưa ngày 09/5/2021, Nguyễn Thị Phương T điều khiển xe gắn máy hiệu Honda Wave biển số 59D3-009.74 chở Thạch Thu H đi tìm quán ăn để ăn trưa cùng nhau. Khi đi đến quán chả số 20 Đặng L, Phường I, quận K, Thảo phát hiện trên bàn inox trước cửa tiệm có để 01 túi xách màu nâu của chị Phạm Thị Thanh H1 nên rủ Hà trộm cắp chiếc túi này. H đồng ý và điều khiển xe đi qua quá nhiều lần để quan sát. Sau đó, H dừng xe trước quán để T đi vào trong quán, H ngồi trên xe chờ. T đi vào ngồi ngay bàn inox để túi xách và giả vờ hỏi mua chả chiên để quan sát. T thấy trên bàn inox có để 01 điện thoại di động hiệu Xioami A9 màu trắng của anh Vũ Hồng T2, 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy Note 8 màu xanh của anh Phạm Minh H2. Thấy T vào quán, bà Mai Thị H4 cất túi xách của chị H1 vào phía trong quán cách bàn inox khoảng 01 mét, cất 02 chiếc điện thoại trên vào bàn inox khác sát tường rồi đi vào nhà. Lợi dụng lúc anh H4 mang chả vào trong nhà chiên cho T, bên ngoài quán không có ai, T liền dùng tay lấy 02 điện thoại trên bỏ vào túi xách của T, lấy túi xách màu nâu của chị H1 đeo lên vai rồi nhanh chóng đi ra khỏi quán, leo lên xe cho H chở tẩu thoát. Bà H4 từ trong nhà đi ra phát hiện, tri hô đuổi theo nhưng không kịp.

H chở T về nhà của H tại 32/53/23 Huỳnh Văn C, phường A, quận B. Cả hai kiểm tra bên trong túi xách màu nâu của chị H1 có: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 promax màu vàng 64GB, 01 chứng minh nhân dân và 01 giấy phép lái xe mang tên Phạm Thị Thanh H1, 01 giấy đăng ký xe biển số 59P2-911.55 mang tên Nguyễn Hữu P, số tiền 103.000.000 đồng. Cả hai chia nhau như sau: H được 51.000.000 đồng, T được 52.000.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 promax màu vàng. Sau đó, mang túi xách màu nâu (bên trong có một số giấy tờ và Simcard) đi vất bỏ tại trước số 32/53/17 Kênh H, phường A, quận B. Còn Thảo mang điện thoại di động hiệu Xioami A9 màu trắng và điện thoại di động hiệu Iphone 11 promax màu vàng mang đến cửa hàng điện thoại C, phường A2, quận B bán cho anh Nguyễn Anh T được 11.700.000 đồng, T lấy 6.000.000 đồng, giữ lại điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy Note 8, chia cho H 5.700.000 đồng.

Qua truy xét, Cơ quan điều tra đã bắt được Nguyễn Thị Phương T và Thạch Thu H. Cả hai thừa nhận đã lấy trộm tài sản của chị Phạm Thị Thanh H1, anh Vũ Hồng T2, anh Phạm Minh H2 như nêu trên. Ngoài ra, Thạch Thu H còn khai nhận thực hiện 02 lần trộm cắp như sau:

- Ngày 27/8/2020, Hà mượn xe gắn máy hiệu Vision biển số 59P3-025.19 của Nguyễn Thị Thu T1 rồi chở bạn tên Phan Thị Ngọc D (không rõ lai lịch) đi mua hộp quà. Khi cả hai vào cửa hàng số 54/28 đường K, Phường G, Quận H thì phát hiện chị Trần Nguyễn Tuyết T3 (nhân viên bán hàng) có để 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 màu tím trên quầy thu ngân. H nảy sinh ý định trộm cắp nên lợi dụng lúc chị T3 không cảnh giác, H lén lút bỏ điện thoại trên vào hộp quà rồi đi khỏi cửa hàng, kêu D chở tẩu thoát. Trên đường đi, H nói cho D biết H vừa lấy trộm điện thoại trong cửa hàng. D nói H đưa cho D để D mang đi bán lấy tiền chia nhau tiêu xài. H đồng ý. H đưa điện thoại cho D, điều khiển xe về trả cho T1 rồi đi công chuyện. Sau đó, khi H đến chung cư C thì gặp lại D và T1. Khi cả ba đang đứng nói chuyện thì có bạn tên D (không xác định lai lịch) báo có công an đang đến nhà tìm T1. H và D sợ bị công an phát hiện đã lấy trộm điện thoại của chị T3 nên thống nhất mang trả điện thoại. Ngày 28/8/2020, bà Lê Thị Lệ (sinh năm 1947, địa chỉ: C1B đường N, Phường G, Quận H) đến Công an Phường 15, Quận 11 giao nộp 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 màu tím và trình bày: Sáng ngày 28/8/2020, con dâu bà là Phạm Thị Ngọc V (không rõ lai lịch) gọi cho bà nói có đi trộm cắp điện thoại cùng bạn tên H vào ngày 27/8/2020 nên đặt xe ôm grab mang điện thoại đến nhờ bà giao nộp cho công an. Bà L không biết hiện V đang ở đâu.

Cơ quan Công an Quận 11 đã tiếp nhận tố giác của chị T, tiếp nhận điện thoại do bà L giao nộp, khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Thạch Thu H. Quá trình điều tra, xác minh tại địa chỉ C1B đường N, Phường G, Quận H) có Lê Thị L, Phan Thanh H, Nguyễn Lê Hiếu N (con trai bà L) đăng ký thường trú; H và N không thực tế cư trú tại địa phương từ năm 2003; đương sự Lê Thị L hiện không thực tế cư trú tại địa chỉ trên, không rõ nơi cư trú hiện tại; tại địa chỉ trên không có ai tên Phạm Thị Ngọc V đăng ký thường trú hoặc tạm trú tại địa chỉ trên. Do đó, không có cơ sở điều tra làm rõ đối với Phạm Thị Ngọc V. Sau đó, Công an Quận 11 đã ra quyết định nhập vụ án và có công văn gửi đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình.

- Ngày 03/01/2021, Thạch Thu H cùng đối tượng Huỳnh Thị Bích L tiếp tục có hành vi trộm cắp tài sản tại địa bàn quận B. Hiện Công an quận Tân Phú đã khởi tố điều tra làm rõ. Ngày 19/10/2021, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình đã có văn bản đề nghị Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú nhập vụ án để Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình truy tố chung, tuy nhiên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú đã chuyển hồ sơ đến Tòa án nhân dân quận Tân Phú, không đồng ý nhập vụ án.

Quá trình điều tra, anh Nguyễn Anh T chủ cửa hàng điện thoại di động Q trình bày: Anh không biết điện thoại di động hiệu Xioami A9 màu trắng và điện thoại di động hiệu Iphone 11 promax màu vàng T bán cho anh là do phạm tội mà có, anh tự nguyện giao nộp lại cho cơ quan công an và không có yêu cầu Thảo bồi thường lại cho anh số tiền 11.700.000 đồng anh mua 02 điện thoại trên.

Đối với Phan Thị Ngọc D, Phạm Thị Ngọc V, quá trình điều tra không xác định được lai lịch nên không làm việc được, khi nào làm việc được có căn cứ sẽ xử lý sau.

Đối với Nguyễn Anh T, không biết nguồn gốc 02 điện thoại di động do T mang bán cho là do phạm tội mà có, phù hợp với lời khai của T nên không có căn cứ xử lý hành vi “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

Kết quả định giá trong tố tụng hình sự: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 promax 64 GB màu vàng trị giá 19.000.000 đồng, 01 điện thoại di động hiệu Xioami A9 màu trắng trị giá 1.600.000 đồng, 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy Note 8 màu xanh trị giá 5.200.000 đồng, 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 trị giá 13.000.000 đồng. Đối với túi xách màu nâu hiệu GC không có mẫu, không có chứng từ nên không có cơ sở định giá.

Vật chứng vụ án:

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 là tài sản bị chiếm đoạt đã thu hồi trả lại cho chị Trần Nguyễn Tuyết T3, chị T3 đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm.

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 promax là tài sản bị chiếm đoạt, đã thu hồi trả lại cho bị hại chị Phạm Thị Thanh H1.

- 01 điện thoại di động hiệu Xioami A9 màu trắng là tài sản bị chiếm đoạt, đã thu hồi trả lại cho anh Vũ Hồng T2, anh T2 đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm.

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy Note 8 màu xanh là tài sản bị chiếm đoạt, đã thu hồi trả lại cho anh Phạm Minh H2, anh Hải đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm.

- 01 bản chính giấy đăng ký xe biển số 59D3-079.64 mang tên Bùi Thị T1, số 50008183 (lưu kèm hồ sơ vụ án).

- Thu giữ của T1:

+ 01 xe gắn máy hiệu Honda Vison biển số 59P3-025.19 thu giữ của Nguyễn Thị Phương T1. Qua xác minh, xe do ông Nguyễn Văn S (cha của T1) đứng tên. Ông S trình bày ông để xe ở nhà, T1 tự ý cho bạn tên H mượn ông không biết, ông có yêu cầu nhận lại xe. T1 khai khi cho H mượn xe, không biết H dùng xe vào việc phạm tội, phù hợp với lòi khai của H. Cơ quan điều tra Công an Quận 11 đã trả lại chiếc xe trên cho ông S.

+ 01 điện thoại di động hiệu Sony Xperia màu đen thu giữ của T1, qua xác minh không liên quan đến hành vi phạm tội nên cơ quan điều tra Công an Quận 11 đã trả lại cho T1.

+ Số tiền 58.000.000 đồng là tiền T được chia từ việc trộm cắp tài sản của chị Phạm Thị Thanh H1. Cơ quan điều tra đã trả lại cho chị H1.

+ 01 áo màu vàng sọc đỏ đen trắng hiệu Burberry, 01 quần jean dài màu xanh dương, 01 đôi dép màu vàng, 01 túi xách màu đen hiệu Juno và 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh dương.

- Thu giữ của Thạch Thu H:

+ 01 xe gắn máy hiệu Honda Vision biển số 59D3-079.64 do bà Bùi Thị T1 (mẹ của Hà) đứng tên sở hữu. Hà khai dùng tiền được chia từ trộm cắp tài sản của chị Phạm Thị Thanh H1 để mua và nhờ bà T1 đứng tên giùm.

+ 01 xe gắn máy hiệu Honda Wave biển số 59D3-009.74 là phương tiện gây án vào ngày 09/5/2021, qua xác minh chủ sở hữu xe là Bùi Thị T1. Bà T1 khai đây là xe gắn máy của con gái Thạch Thu H2 mua sử dụng, nhờ bà đứng tên giùm. Chị H1 khai ngày 09/5/2021, em gái Thạch Thu H nói mượn xe đi công việc, chị không biết H dùng xe vào việc trộm cắp.

+ Số tiền 3.000.000 đồng, H khai đây là tiền còn lại sau khi được T chia cho từ việc trộm cắp tài sản của chị Phạm Thị Thanh H1. Cơ quan điều tra đã trả lại cho chị H1.

+ 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu đen, 01 áo khoác dài tay màu đỏ đen, 01 quần dài màu đen, 01 nón bảo hiểm màu trắng sọc đỏ, 01 đôi dép màu hồng.

Tại bản cáo trạng số 150/CT-VKS ngày 02 tháng 11 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình đã truy tố các bị cáo Nguyễn Thị Phương T và Thạch Thu H về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c, g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015.

Tại phiên tòa:

- Trong phần luận tội đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình nêu tóm tắt nội dung vụ án, các nguyên nhân điều kiện phát sinh tội phạm, tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, nêu các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo H từ 04 năm 06 tháng đến 05 năm 06 tháng, bị cáo T từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm 06 tháng.

Về vật chứng và trách nhiệm dân sự thì đề nghị xử lý theo quy định pháp luật.

- Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, không có tranh luận gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố các bị cáo Nguyễn Thị Phương T và Thạch Thu H, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình được phân công điều tra giải quyết vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, tranh luận nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Xét thấy lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với biên bản tiếp nhận nguồn tin về tội phạm, bản kết luận điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra, bản cáo trạng của Viện kiểm sát, lời khai của người bị hại, người làm chứng cùng tang vật, các tài liệu chứng cứ khác thu được trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy đủ cơ sở kết luận các bị cáo Nguyễn Thị Phương T và Thạch Thu H đã có hành vi cùng nhau lén lút chiếm đoạt số tiền 103.000.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 promax 64 GB màu vàng trị giá 19.000.000 đồng của chị Phạm Thị Thanh H1, 01 điện thoại di động hiệu Xioami A9 màu trắng trị giá 1.600.000 đồng của anh Vũ Hồng T2 và 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy Note 8 màu xanh trị giá 5.200.000 đồng của anh Phạm Minh H2, tổng trị giá là 128.800.000 đồng, đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, thuộc trường hợp “Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng”, các bị cáo đã tài phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý, lần phạm tội này của các bị cáo được xác định là “Tái phạm nguy hiểm”, là những tình tiết định khung hình phạt được quy định tại điểm c, g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Ngoài ra, vào ngày 27/8/2020, bị cáo Thạch Thu H còn có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 trị giá 13.000.000 đồng của chị Trần Nguyễn Tuyết T3, đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Vì vậy hành vi của bị cáo Hà được xác định là “Phạm tội 02 lần trở lên”, là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Hành vi trộm cắp tài sản của các bị cáo là nghiêm trọng và gây nguy hiểm cho xã hội. Nó vừa trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu, quản lý tài sản hợp pháp của công dân được Nhà nước và pháp luật bảo hộ, gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Các bị cáo đã thành niên, đủ khả năng nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác bị pháp luật ngăn cấm và bị trừng trị nhưng do động cơ tham lam nên các bị cáo đã cố tình thực hiện tội phạm một cách liều lĩnh, bất chấp sự trừng trị của pháp luật. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết áp dụng hình phạt tù thật nghiêm nhằm mục đích giáo dục, cải tạo các bị cáo đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ, Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết: các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tài sản bị chiếm đoạt đã được thu hồi phần lớn và trả lại cho bị hại, bị cáo T phạm tội khi đang mang thai, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo T theo quy định tại điểm h, n, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; cho bị cáo H theo quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại chị Trần Nguyễn Tuyết T3, anh Vũ Hồng T2 và anh Phạm Minh H2 đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Bị hại chị Phạm Thị Thanh H1 trình bày chị đã được cơ quan điều tra trả lại số tiền 61.000.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 promax màu vàng, chị yêu cầu được nhận lại chiếc 01 xe gắn máy hiệu Honda Vision biển số 59D3-079.64 mà bị cáo H dùng tiền từ việc trộm cắp tài sản của chị mua được, ngoài ra chị không có yêu cầu các bị cáo bồi thường gì thêm. Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu của chị H1 là có căn cứ nên chấp nhận.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Anh T không biết điện thoại di động hiệu Iphone 11 promax màu vàng và điện thoại di động hiệu Xioami A9 màu trắng do bị cáo Thảo mang bán là do phạm tội mà có nên đã đồng ý mua với giá 11.700.000 đồng. Anh T đã tự nguyện giao nộp lại 02 điện thoại di động trên cho cơ quan công an và không yêu cầu các bị cáo bồi thường lại số tiền đã mua điện thoại. Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của anh T không yêu cầu các bị cáo bồi thường số tiền 11.700.000 đồng trên.

[5] Về vật chứng vụ án:

- 01 áo màu vàng sọc đỏ đen trắng hiệu Burberry, 01 quần jean dài màu xanh dương, 01 đôi dép màu vàng và 01 túi xách màu đen hiệu Juno thu giữ của bị cáo T và 01 áo khoác dài tay màu đỏ đen, 01 quần dài màu đen, 01 nón bảo hiểm màu trắng sọc đỏ, 01 đôi dép màu hồng thu giữ của bị cáo H, xét thấy đây là những vật không có giá trị và các bị cáo không có yêu cầu nhận lại nên tịch thu và tiêu hủy.

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh dương thu giữ của bị cáo T và 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu đen thu giữ của bị cáo H, xét thấy các bị cáo dùng điện thoại vào việc phạm tội nên tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

- 01 xe gắn máy hiệu Honda Vision biển số 59D3-079.64 và 01 bản chính giấy đăng ký xe biển số 59D3-079.64 mang tên Bùi Thị T1, số 50008183, xét thấy đây là do bị cáo Hà dùng tiền trộm cắp tài sản của chị Phạm Thị Thanh H1 mua được và chị H1 có yêu cầu nhận lại chiếc xe này nên cần giao trả chiếc xe này kèm giấy đăng ký xe cho chị H1.

- 01 xe gắn máy hiệu Honda Wave biển số 59D3-009.74 là phương tiện gây án vào ngày 09/5/2021, qua xác minh chủ sở hữu xe là Bùi Thị T1. Bà T1 khai đây là xe gắn máy của con gái Thạch Thu H2 mua sử dụng, nhờ bà đứng tên giùm. Chị H1 khai ngày 09/5/2021, em gái Thạch Thu H nói mượn xe đi công việc, chị không biết bị cáo H dùng xe vào việc trộm cắp, phù hợp với lời khai của bị cáo H. Chị H1 có yêu cầu nhận lại chiếc xe trên. Xét thấy đây là tài sản hợp pháp của chị H1 và yêu cầu của chị H1 là có căn cứ nên chấp nhận trả lại chiếc xe trên cho chị H1.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c, g khoản 2 Điều 173 và điểm h, n, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn Thị Phương T;

Căn cứ điểm c, g khoản 2 Điều 173, điểm g khoản 1 Điều 52 và điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Thạch Thu H;

Căn cứ điểm a, c khoản 2 Điều 106; Điều 135 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

[1] Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thị Phương T và Thạch Thu H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo : Thạch Thu H 05 (năm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 11/5/2021.

Xử phạt bị cáo : Nguyễn Thị Phương T 04 (bốn) năm tù.

Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án, được khấu trừ thời hạn tạm giữ từ ngày 12/5/2021 đến ngày 14/5/2021.

[2] Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh dương, số imei: 354492092487579 và 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu xanh đen, số imei: 357648/10773808/5 – 357649/10/773808/3.

Tịch thu và tiêu hủy: 01 áo màu vàng sọc đỏ đen trắng hiệu Burberry, 01 quần jean dài màu xanh dương, 01 đôi dép màu vàng và 01 túi xách màu đen hiệu Juno, 01 áo khoác dài tay màu đỏ đen, 01 quần dài màu đen, 01 nón bảo hiểm màu trắng sọc đỏ và 01 đôi dép màu hồng.

Trả lại cho chị Phạm Thị Thanh H1: 01 xe gắn máy hiệu Honda Vision màu trắng, biển số 59D3-079.64, số khung: RLHJK0307MY015662, số máy: JK030021748 và 01 bản chính giấy đăng ký xe biển số 59D3-079.64 mang tên Bùi Thị T1, số 50008183. Chị Phạm Thị Thanh H1 được quyền liên hệ cơ quan có thẩm quyền để sang tên chủ sở hữu xe theo quy định pháp luật.

Trả lại cho chị Thạch Thu H2: 01 xe gắn máy hiệu Honda Wave màu xanh, biển số 59D3-009.74, số khung: RLHJA3929MY015662, số máy: JA39E- 2017976.

(Theo phiếu nhập kho vật chứng số 149/PNK ngày 22/10/2021 của Công an quận Tân Bình).

[4] Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[5] Trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án, các bị cáo có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 135/2021/HS-ST

Số hiệu:135/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:25/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về