Bản án về tội trộm cắp tài sản số 134/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 134/2022/HS-PT NGÀY 14/06/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 129/2022/HSPT ngày 11/5/2022 đối với bị cáo Triệu Sỹ Q về tội “Trộm cắp tài sản”. Do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 13/2022/HSST ngày 31 tháng 3 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk.

Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Triệu Sỹ Q, sinh ngày 27/03/1995 tại huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Hộ khẩu thường trú: Thôn 10, xã CP, huyện E, tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: Thôn QC, xã CN, huyện E, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 1/12; con ông Triệu Văn P (đã chết) và con bà: Lục Thị B, sinh năm 1960; vợ: Nông Thị N, sinh năm 1999 và có 02, con lớn sinh năm 2019, con nhỏ sinh năm 2022; Bị cáo đang được tại ngoại - có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Ông Nông Công Đ, sinh năm: 1972. Địa chỉ: Thôn CQ, xã CN, huyện E, tỉnh Đắk Lắk – Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 03/12/2021, Triệu Sỹ Q đi đến cánh đồng lúa nước thuộc Thôn CQ, xã CN, huyện E để đặt bẫy chuột, tại đây Q thấy một con Trâu cái màu đen, khoảng 03 năm tuổi của ông Nông Công Đ (sinh năm 1974, trú tại Thôn CQ, xã CN) đang buộc dây mũi vào bụi cỏ trên bờ ruộng nên Q nảy sinh ý định trộm cắp trâu. Q đi đến mở dây buộc Trâu rồi dắt trộm Trâu đi đến đoạn đường thôn 11, xã EF, huyện E thì gặp ông Nguyễn Viết C (sinh năm 1975, trú tại thôn 11, xã EF), ông C hỏi Q: “Dắt trâu đi đâu đó”, thì Q nói: “Dắt trâu đi thả đực” và tiếp tục dắt trâu đến ngã ba xã EF, Q nhìn thấy trên cột điện có dán số điện thoại xe chở thuê nên Q gọi điện thoại thuê xe chở Trâu về nhà mẹ đẻ là bà Lục Thị B (sinh năm 1960, trú tại thôn 10, xã CP). Khi chở trâu về đến nhà, Q mượn em trai mình là Triệu Văn H số tiền 1.500.000 Đ để trả tiền thuê xe. Bà B và H có hỏi Trâu của ai thì Q nói là trâu của Q mới mua. Đến ngày 04/12/2021 Q đi đến xã EP, huyện E để tìm người mua trâu, Q nhìn thấy một bảng hiệu mua bán trâu bò có số điện thoại nên Q gọi điện thoại thì gặp ông Phan Bá L (Sinh năm 1976, trú tại thôn 08, xã EP, huyện E), Q nói với ông L là trâu nhà đã nuôi được 03 năm và đang có thai 06 tháng, ông L trả giá 24.000.000 Đ (Hai mươi bốn triệu đồng), Q đồng ý bán lấy tiền và đưa cho Bà B 4.000.000 Đ (Bốn triệu đồng) để đi trả nợ cho Q, số tiền còn lại Q cất giữ. Vì lo sợ và nghĩ rằng việc trộm cắp trâu bị phát hiện nên Q điều khiển xe mô tô biển kiểm soát (BKS) 47F1-205.42 (xe của Q) bỏ trốn. Trên đường đi Q đã vứt điện thoại vào vườn mía bên đường, khi đến địa phận huyện M’Drắk, tỉnh Đắk Lắk, Q thấy xấu hổ về hành vi trộm cắp của mình nên đã mua thuốc trừ cỏ để uống, dùng vỏ lon bò húc rạch tay để tự tử nhưng không chết. Trong lúc hoảng loạn, lo sợ, Q đã đốt cháy xe mô tô BKS 47F1-205.42 của mình rồi nằm ngủ bên đường. Đến sáng ngày 05/12/2021, Q đón xe khách xuống thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa, tại đây Q sử dụng tiền bán Trâu mua 01 chiếc xe mô tô BKS 79N6-0851 tại tiệm xe máy (không rõ địa chỉ cụ thể) với giá 4.000.000đ (Bốn triệu đồng), ngoài ra Q cũng đã tiêu xài hết số tiền 9.000.000 Đ (Chín triệu đồng). Ngày 08/12/2021, do hối hận về hành vi của mình nên Q đã đến Công an huyện E đầu thú khai nhận về hành vi phạm tội của mình và giao nộp số tiền 7.000.000 Đ (Bảy triệu đồng) còn lại.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 68/KL-HĐ 992, ngày 09 tháng 12 năm 2021 của Hội Đ định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện E kết luận: 01 (một) con trâu cái, khoảng 03 năm tuổi, nặng 420 kg tại thời điểm ngày 03/12/2021có giá trị là 30.733.000 Đ (Ba mươi triệu bảy trăm ba mươi ba nghìn đồng).

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 13/2022/HSST ngày 31/3/2022 của Tòa án nhân dân huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Triệu Sỹ Q phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Triệu Sỹ Q 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt thi hành án.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 07/4/2022, bị cáo Triệu Sỹ Q có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Triệu Sỹ Q giữ nguyên nội dung kháng cáo và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện đúng như nội dung bản cáo trạng và bản án hình sự sơ thẩm đã được tóm tắt nêu trên.

Quá trình tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Triệu Sỹ Q về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật. Xét mức hình phạt 01 năm 03 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo là nghiêm khắc nên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 13/2022/HSST ngày 31/3/2022 của Tòa án nhân dân huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk về hình phạt. Đề nghị xử phạt bị cáo Triệu Sỹ Q từ 09 tháng đến 12 tháng tù.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bị cáo không tranh luận, bào chữa gì thêm mà chỉ xin Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo Triệu Sỹ Q đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở để kết luận: Do không có tiền trả nợ cá nhân nên khoảng 11 giờ 00 phút ngày 03/12/2021, khi Triệu Sỹ Q đang đi đặt bẫy chuột tại cánh đồng lúa nước thuộc Thôn CQ, xã CN, huyện E thì Q phát hiện có một con trâu cái màu đen, khoảng 03 năm tuổi bị buộc dây mũi vào bụi cỏ trên bờ ruộng không có người trông coi, Q đã nảy sinh ý định trộm cắp con trâu để bán lấy tiền nên đã thực hiện hành vi trộm cắp con trâu của ông Nông Công Đ có giá trị là 30.733.000 Đ. Do đó, Toà án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Triệu Sỹ Q về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy: Xét mức hình phạt 01 năm 03 tháng tù, mà Toà án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo là thoả đáng tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo và Tòa cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới. Vì vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo xin giảm hình phạt và được hưởng án treo của bị cáo mà cần giữ nguyên hình phạt của bản án sơ thẩm, thì mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa tội phạm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm, không có kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét.

[3] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự;  Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Triệu Sỹ Q. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 13/2022/HS-ST ngày 31/3/2022 của Tòa án nhân dân huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk về hình phạt.

[2] Về điều luật áp dụng và mức hình phạt:

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Triệu Sỹ Q 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt thi hành án.

[3] Về án phí: Bị cáo Triệu Sỹ Q phải chịu 200.000 Đ án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

365
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 134/2022/HS-PT

Số hiệu:134/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về