Bản án về tội trộm cắp tài sản số 13/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BÌNH LONG –TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 13/2022/HS-ST NGÀY 10/03/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 3 năm 2022, Tòa án nhân dân thị xã B, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 09/2022/TLST- HS ngày 04 tháng 3 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2022/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo:

Lâm Công Th, sinh năm 1988, tại Quảng Trị.

Nơi cư trú: Tổ 6, ấp 4, xã L, huyện N, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Thợ sửa xe; trình độ văn hoá (học vấn) 03/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lâm T (sinh năm 1930, đã chết) và bà Huỳnh Thị Kh (sinh năm 1945); bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không.

Về nhân thân:

1. Quyết định số 2441/QĐ-UB (NC) ngày 03/12/2007 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về việc đưa vào cơ sở giáo dục về hành vi Trộm cắp tài sản thời hạn 24 tháng (đã chấp hành xong ngày 02/02/2010);

2. Quyết định số 48/QĐ-UBND ngày 08/02/2015 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã L, huyện N, tỉnh Bình Phước về việc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã phường, thị trấn về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy thời hạn 03 tháng (đã chấp hành xong); Ngày 03/7/2021, thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, ngày 03/11/2021 bị khởi tố, áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú và tạm hoãn xuất cảnchho đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Bị hại:

Phùng Cảnh S, sinh năm 1974 (Có mặt) Hộ khẩu thường trú: 165/13B Lê Quang S, phường 6, Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh.

Nơi cư trú hiện nay: Tổ 5, ấp K, xã L, thị xã B, tỉnh Bình Phước.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Nguyễn Trung H (H Già), sinh năm 1996 (Vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 5, ấp H, xã L, thị xã B, tỉnh Bình Phước.

2. Vũ Văn N, sinh năm 1975 (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp 3, xã L, huyện N, tỉnh Bình Phước.

3. Huỳnh Thị Kh, sinh năm 1957 (Vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 6, ấp 4, xã L, huyện N, tỉnh Bình Phước.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lâm Công Th, Nguyễn Trung H là bạn của nhau và có sử dụng ma túy. Khoảng 14 giờ 00 phút ngày 03/7/2021, Th điều khiển xe mô tô chở H đi ngang khu vườn điều của ông Phùng Cảnh S tại tổ 05, ấp K, xã L, thị xã B thì H nhìn thấy trong vườn nhà ông S có cây Giáng Hương nên vào xem thì phát hiện trong vườn có trồng 02 cây hoa mai (cây mai). Lúc này H nảy sinh ý định chiếm đoạt nên nói cho Th biết, Th thống nhất nên H vào căn nhà gỗ không khóa trong vườn của ông Sô lấy 01 con dao làm công cụ đào 01 cây mai trồng cách căn nhà gỗ 6,1m còn Th lấy 01 cái nồi có sẳn ở gần đó múc nước đổ vào gốc cây mai H đang đào để cho mềm đất. Sau đó H cùng với Th dùng tay nhổ cây mai để nằm trên mặt đất. H tiếp tục đào cây mai thứ hai (cách cây mai thứ nhất 03m) còn Th tiếp tục múc nước đổ vào gốc cây mai rồi Th cùng với H nhổ cây mai thứ hai lên khỏi mặt đất. Lúc này Th phát hiện khu vườn nhà ông Sô có camera an ninh nên nói cho H biết. Sợ bị phát hiện việc chiếm đoạt 02 cây mai nên Th và H ra về.

Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, Th điều khiển xe mô tô quay lại vườn của ông Sô lấy 02 cây mai để lên xe chở về nơi ở của Th là nhà mẹ ruột tên Huỳnh Thị Kh thuộc tổ 06, ấp 04, xã L, huyện N, tỉnh Bình Phước. Sáng ngày 04/7/2021, Th trồng 01 cây mai chiếm đoạt được tại vườn nhà và bán cây mai còn lại cho anh Vũ Văn N, được 1.200.000đ (một triệu hai trăm ngàn đồng). Đến chiều cùng ngày, Th dùng số tiền bán cây mai mua ma túy của người không rõ nhân thân lai lịch rồi rủ H cùng sử dụng. Sau khi sử dụng hết số ma túy Th nói cho H biết việc Th tự ý một mình đến nhà ông Sô lấy 02 cây hoa mai.

Ngày 05/7/2021, ông Phùng Cảnh S phát hiện bị mất 02 cây hoa mai nên báo với Công an xã L. Cùng ngày Cơ quan điều tra đã tiến hành khám nghiệm hiện trường, thu giữ: 01 lưỡi dao bằng kim loại màu nâu – xám, không có cán dao, bản rộng có kích thước là (26,3 x 7,5)cm; 01 cái nồi bằng kim loại màu trắng – xám, hình trụ tròn có kích thước là cao 12,5cm, đường kính miệng 25,5cm, đường kính đáy là 20cm và thu giữ được 03 đoạn video clip trích xuất ra từ camera an ninh gắn tại vườn nhà ông Sô ghi lại hình ảnh 02 người thanh niên đào 02 cây mai. Từ cơ sở đó Công an thị xã B đã làm việc với Lâm Công Th, Nguyễn Trung H. Tại Cơ quan điều tra Lâm Công Th, Nguyễn Trung H đã thừa nhận toàn bộ hành vi đào 02 cây mai.

Lâm Công Th đi cùng Công an xã L về nhà thu giữ 01 cây mai có chu vi gốc 30cm; 01 con dao có chiều dài 39cm, lưỡi dao bằng kim loại rộng 07cm; 01 lưỡi cưa bằng kim loại là dụng cụ Th sử dụng để trồng cây mai.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 30/KL-HDĐGTS ngày 21/7/2021 của Hội đồng định giá tài sản Tố tụng hình sự thị xã B, kết luận:

- 01 (một) cây hoa mai có chu vi gốc cây là 40cm; chiều dài từ gốc cây đến phần ngọn cao khoảng (2,35 - 03)m; tán cây phần rộng nhất là 97cm. Thân cây chia ra làm hai nhánh chính, mỗi nhánh gồm nhiều nhánh và cành nhỏ giá 2.000.000đ (hai triệu đồng);

- 01 (một) cây hoa mai có chu vi gốc cây là 30cm; chiều dài từ gốc cây đến phần ngọn cao nhất là 2,73m; tán cây phần rộng nhất là 165m có giá 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng);

Tổng giá trị tài sản mà Lâm Công Th đã chiếm đoạt của bị hại Phùng Cảnh S là 3.500.000 (Ba triệu năm trăm nghìn đồng).

Cáo trạng số: 11/CT-VKS ngày 27/01/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã B truy tố Lâm Công Th về tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên Quyết định truy tố như cáo trạng, căn cứ tính chất mức độ phạm tội đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự, tuyên bố bị cáo phạm tội trộm cắp tài sản; bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo gây thiệt hại không lớn; tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm; tại phiên tòa bị cáo bồi thường cho bị hại số tiền 700.000đ (bảy trăm nghìn đồng) để khắc phục hậu quả, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo quy định tại điểm b, h, i, s, t khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Lâm Công Th từ 12 đến 18 tháng cải tạo không giam giữ.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã B, Kiểm sát viên, Tòa án nhân dân thị xã B, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc kH nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng truy tố. Xét lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại trong vụ án về thời gian, địa điểm và quá trình thực hiện tội phạm, phù hợp với các tài liệu chứng cứ và vật chứng có trong hồ sơ vụ án đã thu thập được.

[3] Hội đồng xét xử đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 14 giờ ngày 03/7/2021, tại tổ 5, ấp K, xã L, thị xã B, tỉnh Bình Phước bị cáo Nguyễn Trung H và Lâm Công Th đã lén lút đào 02 cây mai của bị hại Phùng Cảnh S thì phát hiện có camera ghi hình nên Th và H bỏ về và không lấy cây mai. Đến 21 giờ ngày 03/7/2021 Lâm Công Th tự ý một mình quay lại nhà bị hại Phùng Cảnh S lén lút chiếm đoạt 02 cây mai đã đào trước đó, tổng giá trị 02 cây mai mà bị cáo Lâm Công Th chiếm đoạt của bị hại Phùng Cảnh S là 3.500.000đ (Ba triệu năm trăm nghìn đồng), đủ yếu tố cấu thành tội Trộm cắp tài sản được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo là người trưởng thành đủ năng lực chiu trach nhiêm hinh sư, thưc hiên lôi cô y trưc tiêp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của bị hại, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương.

[5] Bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; phạm tội gây thiệt hại không lớn, tài sản đã thu hồi trả cho bị hại; bị cáo tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm; tại phiên tòa bị cáo bồi thường cho bị hại số tiền 700.000đ (bảy trăm nghìn đồng) để khắc phục hậu quả; bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại các điểm b, h, i, s, t khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ; hai lần bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính nhưng đã chấp hành xong; bị cáo đang nuôi mẹ già sinh năm 1945; có nghề nghiệp sửa xe; có nơi cư trú rõ ràng nên không cần xử phạt tù có thời hạn mà xử cải tạo không giam giữ là đủ tính răn đe và giáo dục chung.

Hiện nay, tình hình dịch bệnh nên cũng ảnh hưởng đến đời sống thu nhập của người lao động nên không cần khấu trừ thu nhập của bị cáo để sung quỹ nhà nước.

Đối với Nguyễn Trung H có hành vi cùng Lâm Công Th đào 02 cây mai của Phùng Cảnh S nhưng do ý thức chủ quan đã tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản là trường hợp Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội quy định tại Điều 16 Bộ luật hình sự nên Nguyễn Trung H được miễn trách nhiệm hình sự.

[6] Đối với vật chứng của vụ án:

Quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã xử lý trả lại 01 cây hoa mai có chu vi gốc 30cm và 01 cây hoa mai có chu vi gốc 40cm cho bị hại Phùng Cảnh S là đúng quy định nên Hội đồng xét xử không xem xét Đối với 01 con dao bằng kim loại màu nâu - xám không có cán dao có kích thước là (26,3cm x 7,5cm); 01 nồi kim loại màu trắng - xám, có kích thước cao 12,5cm, đường kính miệng 25,5cm, đường kính đáy 20cm đã thu giữ để phục vụ điều tra là tài sản của bị hại Phùng Cảnh S cần trả lại cho Phùng Cảnh S.

Đối với 01 áo vải màu xám loại có cổ; 01 quần vài màu xám bạc dài 97cm;

01 mũ bảo hiểm màu đỏ có chữ “NHẬT THÀNH” do H giao nộp để phục vụ công tác điều tra là tài sản của H cần trả lại cho Nguyễn Trung H.

Đối với 01 mũ lưỡi trai màu đen do Th tự nguyện giao nộp để phục vụ công tác điều tra là tài sản cá nhân cho Th nên trả lại cho Lâm Công Th.

Đối với 01 con dao bằng kim loại màu đen có chiều dài 39cm, bản rộng 07cm; 01 lưỡi cưa bằng kim loại màu đen có kích thước (31 x 02)cm tạm giữ tại nhà bà Khuyên để phục vụ điều tra, không liên quan đến vụ án cần trả lại cho bà Huỳnh Thị Kh.

Đối với số tiền 180.000đ (một trăm tám mươi nghìn đồng) tạm giữ từ Lâm Công Th là tiền do phạm tội mà có cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

[7] Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại Phùng Cảnh S đã nhận lại tài sản là 02 cây mai mang về trồng lại nhưng đã chết. Tại phiên tòa, bị cáo bồi thường cho bị hại số tiền 700.000đ (bảy trăm nghìn đồng), bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên không xem xét.

Vũ Văn N không yêu cầu bị cáo Lâm Công Th bồi thường 1.200.000đ (một triệu hai trăm nghìn đồng) là tiền mua cây mai nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Kiểm sát viên đề nghị hình phạt cải tạo không giam giữ cho bị cáo Lâm Công Th và xử lý vật chứng là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lâm Công Th phạm tội Trộm cắp tài sản.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; Điều 36, Điều 50, các điểm b, h, i, s, t khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Lâm Công Th: 12 (mười hai) tháng cải tạo không giam giữ, tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã L, huyện N, tỉnh Bình Phước nhận Quyết định thi hành án hình sự và bản án.

Miễn việc khấu trừ thu nhập cho Lâm Công Th.

Xử lý vật chứng: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Xử lý theo biên bản giao nhận vật chứng số 0002719 ngày 09/02/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã B, tỉnh Bình Phước.

Tich thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 180.000đ (một trăm tám mươi nghìn đồng) gồm: 01 tờ tiền polime mệnh giá 100.000đ (một trăm nghìn đồng); 01 tờ polime mệnh giá 20.000đ (hai mươi nghìn đồng); 06 tờ polime mệnh giá 10.000đ (mười nghìn đồng).

Trả cho Phùng Cảnh S 01 con dao bằng kim loại màu nâu - xám không có cán dao, có kích thước là (26,3cm x 7,5cm); 01 nồi kim loại màu trắng - xám, có kích thước cao 12,5cm, đường kính miệng 25,5cm, đường kính đáy 20cm.

Trả cho Nguyễn Trung H 01 áo vải màu xám loại có cổ; 01 quần vài màu xám bạc dài 97cm; 01 mũ bảo hiểm màu đỏ có chữ “NHẬT THÀNH”.

Trả cho Lâm Công Th 01 mũ lưỡi trai màu đen.

Trả cho bà Huỳnh Thị Kh 01 con dao bằng kim loại màu đen có chiều dài 39cm, bản rộng 07cm; 01 lưỡi cưa bằng kim loại màu đen có kích thước (31 x 02)cm.

Án phí: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

139
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 13/2022/HS-ST

Số hiệu:13/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phước Long - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về