Bản án về tội trộm cắp tài sản số 13/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÝ NHÂN, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 13/2022/HS-ST NGÀY 13/04/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 08/2022/TLST-HS ngày 04 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2022/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 4 năm 2022, đối với bị cáo:

Vũ Văn A, sinh năm 1975 tại Hà Nam; nơi cư trú: Tổ dân phố N, thị trấn V, huyện L, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Đình Bảng (đã chết) và bà Tạ Thị B; vợ : Nguyễn Thị D; con: có 02 con (lớn sinh năm 2002, nhỏ sinh năm 2012); Tiền án, tiền sự: Không.

- Nhân thân:

+ Ngày 14/01/1998, Tòa án nhân dân tối cao xử phạt 03 năm tù về tội "Cướp tài sản của công dân".

+ Ngày 31/01/2002, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam xử phạt 07 năm tù về tội "Cướp tài sản".

+ Ngày 07/01/2013, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Nam ra Quyết định đưa vào cơ sở giáo dục với thời hạn là 24 tháng.

+ Ngày 29/12/2017, Tòa án nhân dân huyện Lý Nhân ra Quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 24 tháng.

1 Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 17/01/2022 đến ngày 23/01/2022 chuyển tạm giam. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam - Công an tỉnh Hà Nam; có mặt.

* Bị hại: Bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1972; nơi cư trú: Thôn Q, xã V, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

* Người tham gia tố tụng khác:

- Người làm chứng: Bà Ngô Thị T; vắng mặt.

- Người chứng kiến: Bà Nguyễn Thị H; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 45 phút ngày 17/01/2022, Vũ Văn A đi bộ một mình đến khu vực chùa "Khai Trung" thuộc thôn Q1, xã V, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam với mục đích xem có ai sơ hở trong việc quản lý tài sản thì trộm cắp. Tại đây, A phát hiện thấy chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave anpha, màu sơn trắng-đen- bạc, BKS: 90B2 - 371.67 của bà Nguyễn Thị S đang dựng ở đường bê tông, A quan sát thấy không có ai thì tiến lại gần chiếc xe mô tô và phát hiện chìa khóa vẫn cắm ở ổ khóa điện, A mở khóa điện, ngồi lên xe khởi động rồi điều khiển xe mô tô BKS: 90B2 - 371.67 đi thẳng theo trục đường bê tông qua cổng chùa "Khai Trung" được khoảng 10 mét thì bị bà S phát hiện hô "Trộm, Trộm...". Lực lượng Công an huyện Lý Nhân phối hợp với Công an xã V, huyện Lý Nhân đang làm nhiệm vụ tuần tra ở khu vực này đã kịp thời bắt giữ được Vũ Văn A.

Công an đã thu giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave anpha, màu sơn trắng-đen-bạc, BKS: 90B2 - 371.67. Kiểm tra người Vũ Văn A thu giữ 01 (một) kết cấu kim loại tự chế hình chữ “T” một cạnh bọc cao su màu vàng có chiều dài 17,5cm; một cạnh kim loại màu xám - trắng có chiều dài 10,7cm; 01 (một) kết cấu kim loại có chiều dài 7,7cm, phần đầu có 06 cạnh; phần mũi được mài nhọn, dẹt hai cạnh; 01 (một) căn cước công dân mang tên Vũ Văn A.

* Khám xét khẩn cấp nơi ở, đồ vật của Vũ Văn A: Không thu giữ được đồ vật, tài liệu gì liên quan đến vụ án.

* Tại bản kết luận định giá tài sản số: 06/KL-ĐGTS ngày 19/01/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lý Nhân kết luận: "01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave anpha, màu sơn trắng-đen-bạc, BKS: 90B2 - 371.67 giá trị là 10.395.000 đồng" * Cơ quan điều tra Công an huyện Lý Nhân đã trả lại cho bà Nguyễn Thị S, bà S không yêu cầu bồi thường thiệt hại gì đối với bị cáo.

* Quá trình điều tra Vũ Văn A khai nhận toàn bộ hành vi đã thực hiện.

Tại Bản cáo trạng số: 10/CT-VKSLN ngày 03/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam đã truy tố Vũ Văn A về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý Nhân luận tội: Giữ nguyên quan điểm kết tội đối với bị cáo theo tội danh, điều khoản đã nêu trong cáo trạng, không có ý kiến thay đổi hoặc bổ sung gì. Sau khi phân tích, đánh giá toàn diện vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Vũ Văn A từ 24 tháng tù đến 30 tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo và đồng thời đề xuất hướng xử lý vật chứng hiện đang thu giữ.

- Bị cáo Vũ Văn A thừa nhận và khai báo toàn bộ hành vi trộm cắp đã thực hiện trong vụ án đúng như nội dung bản cáo trạng đã mô tả, không có ý kiến gì đối với các chứng cứ buộc tội cũng như các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Bị cáo không có ý kiến bào chữa và tranh luận gì đối với cáo buộc của Viện kiểm sát, bản thân đã nhận thức rõ hành vi phạm tội và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Đều thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục và căn cứ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều không có ý kiến hoặc khiếu nại gì đối với các hành vi, quyết định tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong các giai đoạn tố tụng đã thực hiện và ban hành đều hợp pháp, tuân thủ các nguyên tắc tố tụng cũng như đảm bảo việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm được giao theo quy định.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là bị hại, người làm chứng, người chứng kiến vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án có đầy đủ lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Về tội danh: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị hại, những người tham gia tố tụng khác về thời gian, địa điểm, diễn biến hành vi bị cáo đã thực hiện, phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường vụ án, các vật chứng đã thu giữ cũng như chính lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra cùng các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập theo trình tự luật định, phản ánh đúng sự thật khách quan của vụ án.

Do đó, có đủ cơ sở pháp lý kết luận: Với mục đích trộm cắp tài sản, khoảng 14 giờ 50 phút ngày 17/01/2022, tại thôn Quan Trung, xã V, huyện L, tỉnh Hà Nam, Vũ Văn A đã lợi dụng sơ hở trong việc quản lý tài sản của chủ sở hữu lén lút chiếm đoạt 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Anpha, màu sơn trắng-đen- bạc, BKS: 90B2 - 371.67 của bà Nguyễn Thị S có trị giá 10.395.000 đồng thì bị Tổ công tác của Công an huyện Lý Nhân phối hợp với Công an xã V, huyện Lý Nhân phát hiện, bắt quả tang.

Hành vi nêu trên của Vũ Văn A đã phạm vào tội: “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Quan điểm buộc tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam đối với bị cáo theo tội danh và khung hình phạt như bản cáo trạng là hoàn toàn thỏa đáng, đảm bảo căn cứ pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân rất xấu, đã hai lần bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, 01 lần bị áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, 01 lần bị áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

- Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định của Bộ luật hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ: Ngay sau khi thực hiện hành vi trộm cắp, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, đồng thời thể hiện sự ăn năn hối cải trước pháp luật. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Hành vi phạm tội của Vũ Văn A là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an trên địa bàn, gây tâm lý lo lắng trong nhân dân đối với việc quản lý tài sản. Bị cáo có nhân thân rất xấu. Vì vậy, cần phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, cũng như đáp ứng yêu cầu phòng ngừa tội phạm chung trong cộng đồng hiện nay. Đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, xem xét yếu tố nhân thân, tình tiết giảm nhẹ như đã phân tích, Hội đồng xét xử cần giảm nhẹ hình phạt để bị cáo yên tâm chấp hành án sớm hòa nhập cộng đồng xã hội.

- Hình phạt bổ sung: Xét điều kiện, hoàn cảnh thực tế của bị cáo nên không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo theo quy định tại Điều 35 và khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là Nguyễn Thị S đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt không có yêu cầu bồi thường bổ sung. Do đó, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6] Về xử lý vật chứng:

01 kết cấu kim loại tự chế hình chữ “T” một cạnh bọc cao su màu vàng có chiều dài 17,5cm; một cạnh kim loại màu xám - trắng có chiều dài 10,7cm; 01 kết cấu kim loại có chiều dài 7,7cm, phần đầu có 06 cạnh; phần mũi được mài nhọn, dẹt hai cạnh Vũ Văn A mang theo người dùng làm công cụ để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nên tịch thu và tiêu hủy; 01 căn cước công dân là giấy tờ hợp pháp của Vũ Văn A không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

[7] Về các vấn đề khác: Vũ Văn A khai đi cùng Đỗ Văn H, sinh năm 1975, trú tại thôn Đ, xã C, huyện L để trộm cắp tài sản. Cơ quan CSĐT - Công an huyện Lý Nhân đã triệu tập Đỗ Văn H để đấu tranh làm rõ nhưng H khai không biết, không đi cùng Vũ Văn A để trộm cắp tài sản. Ngoài lời khai của A thì không còn tài liệu gì khác để chứng minh nên Cơ quan CSĐT - Công an huyện Lý Nhân không có căn cứ để xử lý đối với Đỗ Văn H với vai trò đồng phạm là phù hợp.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại được thực hiện theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ Khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

- Tuyên bố: Bị cáo Vũ Văn A phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Xử phạt: Bị cáo Vũ Văn A 27 (Hai mươi bảy) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 17/01/2022.

2. Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu và tiêu hủy: 01 (Một) kết cấu kim loại tự chế hình chữ “T” một cạnh bọc cao su màu vàng có chiều dài 17,5cm; một cạnh kim loại màu xám - trắng có chiều dài 10,7cm; 01 (Một) kết cấu kim loại có chiều dài 7,7cm, phần đầu có 06 cạnh; phần mũi được mài nhọn, dẹt hai cạnh.

Trả lại cho bị cáo Vũ Văn A 01 căn cước công dân mang tên Vũ Văn A (Vật chứng nêu trên có đặc điểm, tình trạng được ghi trong biên bản giao, nhận vật chứng lập ngày 07/3/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Lý Nhân và Chi cục thi hành án dân sự huyện Lý Nhân).

3. Căn cứ Điều 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội:

- Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Vũ Văn A phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng.

- Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày. Đối với bị cáo kể từ ngày tuyên án; đối với bị hại thời hạn kháng cáo 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của các Điều 6,7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 13/2022/HS-ST

Số hiệu:13/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lý Nhân - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về