Bản án về tội trộm cắp tài sản số 128/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 128/2021/HS-ST NGÀY 20/08/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, Tòa án nhân dân huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 129/2021/HSST ngày 26 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 132/2021/QĐXXST-HS ngày 02/8/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 14/2021/QĐHPT-TA ngày 17/8/2021 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Duy L, sinh ngày 14/12/2003;

HKTT: Thôn XD, xã KL, huyện Sóc Sơn, Th phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 08/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; bố đẻ: Nguyễn Duy L1 và mẹ đẻ: Nguyễn Thị Y; Gia đình có 2 chị em, bị cáo là thứ hai; chưa có vợ; tiền sự: Không; tiền án: 01 (Bản án số 150/2021/HS-PT ngày 11/3/2021, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt 3 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo đã chấp hành xong tiền án phí, chưa chấp hành hình phạt tù); nhân thân:

+ Ngày 05/7/2021 bị Cơ quan CSĐT Công an huyện Tiên Du khởi tố về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1, Điều 173 BLHS.

+ Ngày 11/8/2019, bị Công an phường Láng Thượng, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội ra Quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức “Cảnh cáo” về hành vi “Trộm cắp tài sản”.

Bị cáo hiện đang bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/5/2021 đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh – có mặt.

2. Nguyễn Duy Th, sinh năm 2000;

HKTT: Thôn XD, xã KL, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; bố đẻ: Nguyễn Duy Ng và mẹ đẻ: Đào Thị Tr; Gia đình có 3 chị em, bị cáo là thứ hai; chưa có vợ; tiền án, tiền sự, nhân thân:

Không; Bị cáo hiện đang bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/5/2021 đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh – có mặt.

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo L:

+ Ông Nguyễn Duy L1, sinh năm 1982(bố đẻ của bị cáo L)– vắng mặt;

+ Bà Nguyễn Thị Y, sinh năm 1984 (mẹ đẻ của bị cáo L) - có mặt;

Địa chỉ: Thôn Xuân Dương, xã Kim Lũ, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội.

- Người bào chữa cho bị cáo L: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1984 – Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Bắc Ninh - có mặt.

Địa chỉ: Số 8, đường Phủ Đổng Thiên Vương, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh.

- Người bào chữa cho bị cáo Th: Luật sư Nguyễn Đức Biên và luật sư Đào Trung Kiên, Công ty Luật TNHH Đại La – Đoàn luật sư Th phố Hà Nội – có mặt;

Địa chỉ: Số 42, phố Trần Vỹ, phường Mai Dịch, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.

- Người bị hại:

1. Anh Hoàng Sỹ L, sinh năm 1997 – vắng mặt;

Địa chỉ: Bản Tràng, Thanh Bình, Chợ Mới, Bắc Cạn.

2. Anh Nguyễn Hữu L, sinh năm 1995 – vắng mặt;

3. Anh Nguyễn Đăng Hoàng H, sinh năm 2002– vắng mặt;

4. Ông Hoàng Công T, sinh năm 1970 – vắng mặt;

Đều địa chỉ: Khu a, thị trấn P, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ 15 phút, ngày 11/5/2021, tại thôn Bất Phí, xã Nhân Hòa, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh tổ tuần tra Công an huyện Quế Võ tiến hành kiểm tra hành chính đối với Nguyễn Duy L, sinh ngày 14/12/2003 và Nguyễn Duy Th, sinh năm 2000 đều có hộ khẩu thường trú tại thôn Xuân Dương, xã Kim Lũ, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội có biểu hiện vi phạm pháp luật. Quá trình kiểm tra thu giữ trên người Nguyễn Duy Th 01 tay công hình chữ “L” bằng kim loại, kích thước dài 14,5cm, vỏ tay cầm bằng cao su có màu đen viền đỏ, 02 mũi vam có hai cạnh bằng kim loại; thu giữ của Nguyễn Duy L 01 điện thoại Iphone Pro Max màu vàng và 01 xe mô tô Exciter màu đen biển kiểm soát BKS 12T1-177.33 (xe không có giấy tờ). Tổ tuần tra tiến hành đưa L và Th về trụ sở Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Quế Võ để làm việc.

Tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Quế Võ, Nguyễn Duy L và Nguyễn Duy Th khai nhận hành vi phạm tội như sau:

Nguyễn Duy L và Nguyễn Duy Th là hai anh em họ với nhau, trong thời gian từ tháng 3/2021 đến tháng 5/2021 L và Th đã cùng nhau thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Quế Võ, cụ thể:

Vụ thứ nhất: Khoảng 15 giờ ngày 11/3/2021, L gọi điện thoại rủ Th đi trộm cắp tài sản, Th đồng ý và hẹn nhau tại khu vực đê thôn Xuân Dương, xã Kim Lũ, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội. Sau đó, L điều khiển xe mô tô Honda Wave màu trắng BKS 29S6-790.09 ra chỗ hẹn đón Th. Khi đi, L mang theo một tay công hình chữ L và hai mũi vam bằng kim loại. L điều khiển xe mô tô chở Th xuống khu vực huyện Yên Phong để tìm tài sản sơ hở để trộm cắp nhưng không lấy được tài sản gì, L tiếp tục điều khiển xe mô tô chở Th xuống khu vực huyện Quế Võ để trộm cắp tài sản. Trên đường đi, L đưa cho Th một tay công hình chữ L và hai mũi vam, Th cầm đút vào túi quần của Th. Khoảng 18 giờ cùng ngày, L điều khiển xe mô tô chở Th đến trước cửa nhà trọ của ông Nguyễn Thế D, sinh năm 1972 ở thôn Mao Dộc, xã Phượng Mao, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh phát hiện chiếc xe mô tô Honda Wave màu xanh đen bạc BKS 97B1-940.47 của anh Hoàng Sỹ L, sinh năm 1997, HKTT: Bản Tràng, xã Thanh Bình, huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn đang đỗ tại đó. Th nói với L: “Đỗ xuống lấy đi, tối rồi, còn phải về”, L đồng ý và đỗ xe cách chiếc xe mô tô của anh Hoàng Sỹ L khoảng 5 mét để cảnh giới. Th xuống xe đi bộ tiến đến chiếc xe của anh Hoàng Sỹ L, dùng vam phá khóa đã chuẩn bị sẵn chọc vào ổ khóa điện rồi vặn theo chiều kim đồng hồ để mở khóa xe, tuy nhiên xe không nổ máy. Th dắt xe vừa trộm cắp được đi khoảng 15 đến 20 mét thì dừng lại, đấu khóa điện của xe, nổ máy và điều khiển xe vừa trộm cắp được về cất giấu tại vườn nhà Th, còn L đi xe của L về nhà. Sau đó, Th rao bán chiếc xe trộm cắp được trên mạng xã hội Facebook. Khoảng 8 giờ sáng ngày 12/3/2021, Th bán cho một người đàn ông không quen biết với được số tiền 4.800.000đ, Th chia cho L 2.500.000đ, còn lại 2.300.000đ Th đã tiêu xài cá nhân hết.

Ngày 11/5/2021, anh Hoàng Sỹ L đến Công an huyện Quế Võ trình báo về việc anh bị mất tài sản như trên.

Ngày 13/5/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quế Võ trưng cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Quế Võ định giá đối với chiếc xe mô tô Honda Wave màu xanh đen bạc BKS 97B1-940.47.

Tại Kết luận định giá tài sản số 28/KL-HĐĐGTS ngày 13/5/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Quế Võ kết luận: Một xe máy Honda Wave BKS 97B1-940.47 màu xanh đen bạc đã qua sử dụng tại thời điểm định giá tháng 3/2021 trị giá 12.000.000đ.

Anh Hoàng Sỹ L yêu cầu các bị cáo phải bồi thường giá trị tài sản đã trộm cắp theo kết luận định giá tài sản.

Vụ thứ hai: Khoảng 06 giờ ngày 11/5/2021, Nguyễn Duy L gọi điện rủ Nguyễn Duy Th đi trộm cắp tài sản, Th đồng ý và hẹn nhau tại khu vực đê thôn Xuân Dương, xã Kim Lũ, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội. Khoảng 30 phút sau, L mang theo một tay công hình chữ “L” và 03 đầu vam phá khóa bằng kim loại điều khiển xe mô tô Exciter màu đen BKS 12T1-177.33 đến chỗ hẹn đón Th, cả hai đi sang huyện Quế Võ để trộm cắp tài sản. Trên đường đi L đưa cho Th một tay công hình chữ “L” và 03 đầu vam phá khóa. Khoảng 8 giờ cùng ngày, L và Th đi đến cửa hàng điện máy Hải Lành tại thôn Lợ, xã Việt Hùng, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh của anh Nguyễn Hữu L, sinh năm 1995, HKTT: Khu 3, thị trấn Phố Mới, huyện Quế Võ phát hiện 01 (một) xe mô tô Honda SH Mode màu đỏ đen BKS 99E1-280.19 của anh L đang đỗ trước cửa hàng, xung quanh không có ai trông giữ. L điều khiển xe mô tô đi qua cửa hàng rồi vòng xe quay lại, đỗ xe cách chiếc xe mô tô của anh L khoảng 8 đến 10 mét. L đứng ngoài cảnh giới, Th xuống xe cầm tay công và vam đi bộ đến gần xe của anh L, dùng vam phá khóa chọc vào ổ khóa điện vặn mạnh theo chiều kim đồng hồ thì nghe thấy tiếng “cạch” mạnh, Th biết là ổ khóa bị hỏng, do sợ bị phát hiện nên đã vứt vam và bỏ xe lại, đi ra chỗ L đỗ xe, ngồi lên xe và cùng L bỏ đi. Anh L sau khi phát hiện chiếc xe bị kẻ gian phá khóa đã thay ổ khóa khác.

Ngày 24/5/2021, anh Nguyễn Hữu L đến Công an huyện Quế Võ trình báo về sự việc trên. Ngày 24/5/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quế Võ trưng cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Quế Võ định giá đối với chiếc xe mô tô Honda SH Mode màu đỏ đen BKS 99E1-280.19.

Tại Kết luận định giá tài sản số 32/KL-HĐĐGTS ngày 26/5/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Quế Võ kết luận: Một xe máy nhãn hiệu Honda SH Mode màu đỏ đen BKS 99E1-280.19 đã qua sử dụng tại thời điểm định giá tháng 5/2021 trị giá 34.500.000đ.

Ngày 25/5/2021, anh Nguyễn Hữu L giao nộp cho Cơ quan CSĐT Công an huyện Quế Võ 01 ổ khóa xe mô tô Honda SH Mode đã bị cạy phá hỏng và 08 ảnh cắt từ camera hình ảnh 02 đối tượng đến cửa hàng điện máy H Lành trộm cắp xe mô tô Honda SH Mode. Anh L không bị mất xe nên không yêu cầu các bị cáo bồi thường. Đối với ổ khóa điện của xe mô tô Honda SH Mode màu đỏ đen BKS 99E1-280.19 của anh Nguyễn Hữu L bị các đối tượng làm hỏng, do giá trị nhỏ nên anh L không yêu cầu định giá và không yêu cầu pH bồi thường.

Ngoài 02 hành vi phạm tội trên, Nguyễn Duy L còn khai nhận thực hiện 03 vụ trộm cắp tài sản khác trên địa bàn huyện Quế Võ, cụ thể:

Vụ thứ nhất: Khoảng 18 giờ ngày 27/4/2021, Nguyễn Đình Ch, sinh năm 2003 ở cùng thôn rủ L đi trộm cắp tài sản, L đồng ý và hẹn nhau tại khu vực đê thôn Xuân Dương. Sau đó, L điều khiển xe mô tô Honda Wave màu trắng BKS 29S6-790.09 và mang theo một tay công hình chữ L và hai mũi vam phá khóa bằng kim loại có hai cạnh đến chỗ hẹn đón Ch. Gặp Ch, L bảo Ch điều khiển xe mô tô chở L xuống Quế Võ để trộm cắp tài sản. Khoảng 20 giờ cùng ngày, Ch và L đi đến trước cửa hàng điện thoại “Didong7.vn” của ông Hoàng Công T, sinh năm 1970 ở Khu 3, thị trấn Phố Mới, huyện Quế Võ phát hiện chiếc xe mô tô Dream màu nâu BKS 99F1- 8880 của ông T đỗ trước cửa quán. Quan sát xung quanh không có ai, Ch đỗ xe lại cảnh giới, L đi bộ đến gần chiếc xe, dùng vam phá khóa chọc vào ổ khóa điện của xe rồi vặn mạnh theo chiều kim đồng hồ thì thấy đèn điện sáng. L ngồi lên xe nổ máy và điều khiển xe vừa trộm cắp được về nhà cất giấu, Ch điều khiển xe của L về nhà L. Khoảng 2 đến 3 ngày sau, L bán chiếc xe trộm cắp được cho Nguyễn Duy Tr, sinh năm 2000 ở cùng thôn được số tiền 9.000.000đ. L chia cho Ch 3.000.000đ, còn lại 6.000.000đ L đã tiêu xài cá nhân hết.

Ngày 09/6/2021, ông Hoàng Công T đến Công an huyện Quế Võ trình báo về việc bị mất tài sản như trên. Ngày 09/6/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quế Võ trưng cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Quế Võ định giá đối với chiếc xe mô tô Dream màu nâu BKS 99F1-8880.

Tại Kết luận định giá tài sản số 35/KL-HĐĐGTS ngày 09/6/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Quế Võ kết luận: Một xe máy Dream BKS 99F1-8880 màu nâu đăng ký lần đầu vào ngày 07/01/1999 tại thời điểm định giá tháng 4/2021 trị giá 22.000.000đ. Ông Hoàng Công T yêu cầu các bị cáo phải bồi thường giá trị tài sản đã trộm cắp theo kết luận định giá tài sản.

Vụ thứ hai: Khoảng 18 giờ ngày 10/5/2021, L rủ Nguyễn Duy Tr, sinh năm 2000 ở cùng thôn đi trộm cắp tài sản, Tr đồng ý và hẹn nhau tại khu vực đê thôn Xuân Dương. Sau đó L chuẩn bị 01 tay công và 02 mũi vam bằng kim loại còn Tr đi xe mô tô Honda Wave màu đen (không nhớ BKS) đến chỗ hẹn đón L. Tr điều khiển xe mô tô chở L sang huyện Quế Võ để trộm cắp tài sản. Khoảng 20 giờ cùng ngày, L và Tr đi đến cửa hàng điện thoại “Didong7.vn” của ông Hoàng Công T phát hiện chiếc xe mô tô Dream màu nâu BKS 29G1-968.70 của ông T đỗ trước cửa quán. Quan sát xung quanh không có ai, Tr đỗ xe lại cảnh giới, L đi bộ đến gần chiếc xe, dùng vam phá khóa chọc vào ổ khóa điện của xe rồi vặn mạnh theo chiều kim đồng hồ thì thấy đèn điện sáng. L ngồi lên xe vừa trộm cắp nổ máy xe đi được khoảng 3 mét thì chiếc xe bị khóa càng không đi được nên L bỏ xe lại và ngồi lên xe của Tr bỏ đi để tìm xe khác trộm cắp.

Ngày 09/6/2021, ông Hoàng Công T đến Công an huyện Quế Võ trình báo về sự việc như trên. Ngày 09/6/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quế Võ trưng cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Quế Võ định giá đối với chiếc xe mô tô Dream màu nâu BKS 29G1-968.70. Tại kết luận định giá tài sản số 36/KL-HĐĐGTS ngày 09/6/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Quế Võ kết luận: Một xe máy Dream BKS 29G1-968.70 màu nâu đăng ký lần đầu vào ngày 04/5/1996 tại thời điểm định giá tháng 5/2021 trị giá 25.000.000đ. Ông T không bị mất chiếc xe nên không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường. Đối với ổ khóa điện của xe mô tô Dream màu nâu BKS 29G1-968.70 của ông Hoàng Công T do giá trị nhỏ nên ông T không yêu cầu định giá và không yêu cầu phải bồi thường.

Vụ thứ ba: Sau khi L và Tr trộm cắp chiếc xe Dream BKS 29G1-968.70 màu nâu của ông T không Th, Tr và L tiếp tục tìm kiếm xe sơ hở để trộm cắp. Khi đi đến nhà anh Nguyễn Đăng Hoàng H, sinh năm 2002, HKTT ở khu 3, thị trấn Phố Mới, huyện Quế Võ phát hiện trước cửa nhà có một xe Honda Wave màu trắng đen bạc BKS 98E1-586.67 của anh H. Quan sát xung quanh không có ai, Tr đỗ xe lại cảnh giới, L dùng vam phá khóa chọc vào ổ khóa điện xe vặn theo chiều kim đồng hồ thấy đèn điện xe sáng. L ngồi lên xe vừa trộm cắp nổ máy đi thẳng về nhà Nguyễn Duy H, sinh năm 1996 ở cùng thôn cất giấu tài sản.

Ngày 10/5/2021, anh Nguyễn Đăng Hoàng H đến Công an huyện Quế Võ trình báo về việc mất tài sản như trên. Ngày 12/5/2021, Cơ quan CSĐT Công an huyện Quế Võ thu giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu trắng đen bạc BKS 98E1- 586.67 tại gia đình bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1968 ở thôn Xuân Dương, xã Kim Lũ, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội (Là mẹ đẻ Nguyễn Duy H).

Ngày 13/5/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quế Võ trưng cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Quế Võ định giá đối với chiếc xe mô tô Honda Wave màu trắng đen bạc BKS 98E1-586.67. Tại Kết luận định giá tài sản số 29/KL-HĐĐGTS ngày 13/5/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Quế Võ kết luận: Một xe máy Honda Wave BKS 98E1-586.67 màu trắng đen bạc đã qua sử dụng tại thời điểm định giá tháng 5/2021 trị giá 10.000.000đ. Ngày 02/7/2021, Cơ quan CSĐT Công an huyện Quế Võ đã trả lại anh H chiếc xe này. Anh H nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường gì.

Tại Cơ quan CSĐT Công an huyện Quế Võ, Nguyễn Duy L và Nguyễn Duy Th đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.

Bản cáo trạng số: 96/CT-VKS ngày 26/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh đã truy tố các bị cáo Nguyễn Duy L và Nguyễn Duy Th phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 173 BLHS và khoản 1 Điều 173 BLHS.

Tại phiên tòa, các bị cáo L và Th khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản cáo trạng đã nêu và thừa nhận, cáo trạng của VKSND huyện Quế Võ đã truy tố các bị cáo là đúng người, đúng tội. Các bị cáo đề nghị HĐXX xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Bà Nguyễn Thị Y là mẹ đẻ của bị cáo L trình bày: Đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo L và đề nghị HĐXX trả lại chiếc điện thoại Iphone 12 Pro Max màu vàng mà cơ quan điều tra thu giữ của L. Đây là điện thoại bà mua trả góp ngày 25/02/2021, hiện vẫn đang phải trả góp, điện thoại này bà cho L mượn.

Bị cáo L khai nhận: Chiếc điện thoại bị cáo dùng để liên lạc các bị cáo khác đi trộm cắp là điện thoại Iphone 6 của bị cáo đã bị rơi khi gặp tổ tuần tra của Công an huyện Quế Võ còn chiếc điện thoại Iphone 12 Pro Max màu vàng là bị cáo mượn của mẹ bị cáo.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ thực hành quyền công tố tại phiên toà trình bày luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Duy L và Nguyễn Duy Th phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; điểm b, r,s khoản 1 Điều 51, điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 17; Điều 56; Điều 57; Điều 58; Điều 91; Điều 101 BLHS xử phạt: Bị cáo Nguyễn Duy L từ 25 tháng tù đến 30 tháng tù. Tổng hợp hình phạt đối với 03 tháng tù tại Bản án số: 150/2021/HSPT của TAND Th phố Hà Nội buộc bị cáo chấp hành từ 28 đến 33 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b,r,s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 17; Điều 57; Điều 58 BLHS xử phạt bị cáo Nguyễn Duy Th từ 08 tháng tù đến 12 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam; Miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 BLHS, Điều 584, 585, 586, 587, 589 BLDS buộc bị cáo L và bị cáo Th phải liên đới bồi thường cho anh Hoàng Sỹ L số tiền 12.000.000 đồng (trong đó mỗi bị cáo 6.000.000đ). Buộc bị cáo L phải bồi thường cho ông T số tiền 22.000.000đ.

Ngoài ra, đại diện VKS còn đề nghị về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Các bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Người bào chữa cho bị cáo L phát biểu ý kiến: Ông nhất trí với quan điểm của đại diện VKS về tội danh và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, về mức hình phạt đề nghị HĐXX xét xử bị cáo mức hình phạt thấp nhất vì khi bị cáo phạm tội bị cáo chưa đủ 18 tuổi, nhận thức pháp luật còn hạn chế.

Người bào chữa cho bị cáo Th là luật sư Đào Trung Kiên phát biểu ý kiến: Ông nhất trí với quan điểm của đại diện VKS về tội danh và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo Th. Tuy nhiên, xét về nhân thân, bị cáo Th chưa bị xét xử lần nào, có nhân thân tốt, phạm tội ở khoản 1 của Điều 173 BLHS thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b,r,s khoản 1 Điều 51 BLHS nên đề nghị HĐXX xét xử bị cáo mức thấp nhất của khung hình phạt. Luật sư Nguyễn Đức Biên đồng ý với bài phát biểu của luật sư Kiên.

Các bị cáo L và Th nhất trí với lời bào chữa của luật sư bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho mình và đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Người đại diện cho bị cáo L không có ý kiến tranh luận gì với đại diện viện kiểm sát, nhất trí với ý kiến của luật sư bào chữa.

Đại diện VKS phát biểu ý kiến về cơ bản ý kiến của các người bào chữa không có gì khác với quan điểm của đại diện VKS, về mức hình phạt đề nghị HĐXX xem xét, đánh giá.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan điều tra, điều tra viên, cán bộ điều tra, viện kiểm sát, kiểm sát viên đều đảm bảo đúng quy định của pháp luật, không bị ai khiếu nại nên xác định hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại; phù hợp với tang vật thu giữ được và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện:

Trong ngày 11/3/2021 và ngày 11/5/2021, lợi dụng sự sơ hở trong việc quản lý tài sản của những người bị hại, các bị cáo Nguyễn Duy L và Nguyễn Duy Th đã có hành vi trộm cắp 01 xe mô tô Honda Wave màu xanh đen bạc BKS 97B1-940.47 trị giá 12.000.000đ của anh Hoàng Sỹ L (đã lấy được tài sản) và 01 xe mô tô Honda SH Mode màu đỏ đen BKS 99E1-280.19 trị giá 34.500.000đ của anh Nguyễn Hữu L (không lấy được tài sản). Tổng giá trị tài sản các bị cáo trộm cắp là 46.500.000đ.

Ngoài hai vụ án trên, trong các ngày 27/4/2021 và 10/5/2021, bị cáo Nguyễn Duy L còn thực hiện 03 vụ trộm cắp khác có tổng trị giá là 57.000.000đ, cụ thể:

Vụ thứ nhất: Khoảng 20 giờ ngày 27/4/2021, tại Khu 3, thị trấn Phố Mới, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, Nguyễn Duy L và Nguyễn Duy Ch, sinh năm 2003 ở cùng thôn với L đã cùng nhau trộm cắp chiếc xe mô tô Dream màu nâu BKS 99F1- 8880 trị giá 22.000.000đ của ông Hoàng Công T.

Vụ thứ hai: Khoảng 20 giờ ngày 10/5/2021, tại Khu 3, thị trấn Phố Mới, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, Nguyễn Duy L và Nguyễn Duy Tr, sinh năm 2000 ở cùng thôn với L đã cùng nhau trộm cắp chiếc xe mô tô Dream màu nâu BKS 29G1-968.70 trị giá 25.000.000đ cũng của ông Hoàng Công T (chưa lấy được tài sản).

Vụ thứ ba: Khoảng 20 giờ 15 phút ngày 10/5/2021, tại khu 3, thị trấn Phố Mới, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, Nguyễn Duy L và Nguyễn Duy Tr đã cùng nhau trộm cắp chiếc xe Honda Wave màu trắng đen bạc BKS 98E1-586.67 trị giá 10.000.000đ của anh Nguyễn Đăng Hoàng H.

Tổng giá trị tài sản mà Nguyễn Duy L trộm cắp là 103.500.000đ, tổng giá trị tài sản mà Nguyễn Duy Th trộm cắp là 46.500.000đ.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Duy L đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 BLHS và hành vi của bị cáo Nguyễn Duy Th đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS như cáo trạng của VKSND huyện Quế Võ đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bản vệ, gây ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương. Các bị cáo thực hiện việc phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Vào thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo Th có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản là phạm tội nhưng vẫn cố ý thực hiện. Đối với bị cáo L khi phạm tội bị cáo chưa đủ 18 tuổi, nhưng bị cáo đã một lần bị xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản, bị Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội xử phạt 03 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”, như vậy bị cáo có đủ nhận thức về việc trộm cắp tài sản là phạm tội nhưng vẫn cố ý cùng với người khác thực hiện việc trộm cắp. Do vậy, cần phải áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly các bị cáo khỏi xã hội một thời gian để nhằm để giáo dục, cải tạo các bị cáo trở Th người có ích cho xã hội, cũng là để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Xét vai trò, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo thì thấy: Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, không có sự thỏa thuận, bàn bạc trước về việc thực hiện tội phạm, không có người cầm đầu, các bị cáo cùng thực hiện hành vi phạm tội.

Về vai trò của các bị cáo trong vụ án: Bị cáo L là người chủ động đề xuất việc đi trộm cắp, chuẩn bị công cụ, phương tiện để thực hiện việc trộm cắp còn bị cáo Th là người trực tiếp thực hiện hành vi phá khóa, lấy trộm xe mô tô và trực tiếp tiêu thụ tài sản trộm cắp nên xác định các bị cáo có vai trò ngang nhau trong việc thực hiện hành vi phạm tội. Ngoài ra, bị cáo L còn cùng các đối tượng khác thực hiện các hành vi phạm tội khác trên địa bàn huyện Quế Võ nên xác định bị cáo L có vai trò cao hơn trong vụ án này.

Bị cáo Th thực hiện 02 lần phạm tội với tổng giá trị tài sản là 46.500.000đ, trong đó có 01 lần tội phạm đã hoàn thành (tài sản trị giá 12.000.000đ) và 01 lần chưa lấy được tài sản, thuộc trường hợp tội phạm chưa đạt (tài sản trị giá 34.500.000đ). Bị cáo L thực hiện 05 lần phạm tội với tổng giá trị tài sản là 103.500.000đ, trong đó có 03 lần tội phạm đã hoàn thành (tài sản trị giá 44.000.000đ và 02 lần phạm tội chưa đạt (tài sản trị giá 59.500.000đ). Việc các bị cáo phạm tội chưa đạt là do nằm ngoài ý thức chủ quan của các bị cáo nên các bị cáo vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự đối với tổng giá trị tài sản của các lần trộm cắp nhưng cần áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về phạm tội chưa đạt khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo.

Bị cáo L thực hiện hành vi phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi nên cần áp dụng các quy định của pháp luật đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đều Th khẩn khai báo, ăn năn hối hận về hành vi của mình, các bị cáo đã tự thú khai nhận các hành vi phạm tội của mình khi chưa bị ai phát hiện, trong quá trình chuẩn bị xét xử L và Th đã tác động gia đình bồi thường khắc phục cho các bị hại (gia đình Th nộp 6.200.000 đồng, gia đình L nộp 10.200.000 đồng) nên cho các bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b,r,s khoản 1 Điều 51 BLHS.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo L và Th đều thực hiện nhiều hành vi phạm tội và lần phạm tội đều có giá trị trên 2.000.000 đồng nên các bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “phạm tội từ 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS. Ngoài ra bị cáo L còn có nhân thân xấu, từng bị xử lý hành chính và xét xử về tội “Trộm cắp tài sản”, hiện đang bị cơ quan tiến hành tố tụng huyện Tiên Du điều tra về hành vi trộm cắp tài sản khác, bị cáo phạm tội khi chưa được xóa án tích nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS. Bản án số: 150/2021/HSPT ngày 11/3/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt bị cáo L 03 tháng tù, bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị cáo chưa chấp hành bản án nên cần tổng hợp hình phạt đối với bản án trên.

Đối với ý kiến của người bào chữa cho các bị cáo đều đồng tình với ý kiến của đại diện VKS về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự chỉ đề nghị HĐXX xem xét về mức hình phạt. Đối với ý kiến của người bào chữa, HĐXX sẽ xem xét khi quyết định hình phạt.

Về hình phạt bổ sung: do bị cáo Th mới xuất ngũ, bị cáo L là người chưa đủ 18 tuổi, các bị cáo đều còn trẻ tuổi, không có tài sản và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự:

Đối với chiếc xe mô tô Honda SH Mode màu đỏ đen BKS 99E1-280.19 của anh Nguyễn Hữu L và chiếc xe Honda Dream màu nâu BKS 29G1-968.70 của ông Hoàng Công T, quá trình các bị cáo trộm cắp chiếc xe đã làm hỏng ổ khóa, anh L và ông T không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường nên không xem xét giải quyết.

Đối với chiếc xe Honda Wave màu trắng đen bạc BKS 98E1-568.67 của anh Nguyễn Đăng Hoàng H, cơ quan điều tra đã thu hồi được chiếc xe này và trả lại cho anh H. Anh H đã nhận lại xe, không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường nên không xem xét giải quyết.

Đối với chiếc xe Honda Wave màu xanh đen bạc BKS 97B1-940.47 của anh Hoàng Sỹ L có trị giá 12.000.000đ do bị cáo L và bị cáo Th trộm cắp. Anh Hoàng Sỹ L yêu cầu các bị cáo phải bồi thường là có căn cứ nên cần buộc các bị cáo phải liên đới bồi thường cho anh Hoàng Sỹ L giá trị chiếc xe là 12.000.000đ. Trong đó, mỗi bị cáo phải bồi thường cho anh L số tiền là 6.000.000đ.

Đối với chiếc xe mô tô Dream thái màu nâu BKS 99F1-8880, bị cáo L cùng với Ch lấy trộm của ông Hoàng Công T có trị giá là 22.000.000đ, bị cáo L có trách nhiệm bồi thường cho ông T trị giá của chiếc xe trên với số tiền là 22.000.000đ. Bị cáo L có quyền yêu cầu Ch có trách nhiệm hoàn trả một phần số tiền trên cho bị cáo khi chứng minh được Ch có hành vi cùng bị cáo thực hiện việc trộm cắp chiếc xe này bằng một vụ án dân sự khác.

[6] Về vật chứng của vụ án:

Đối với 01 tay công hình chữ “L” bằng kim loại, kích thước dài 14,5cm, vỏ tay cầm bằng cao su có màu đen viền đỏ; 02 đầu vam có hai cạnh bằng kim loại kích thước dài 7,5cm là công cụ, phương tiện các bị cáo dùng để phạm tội và 01 ổ khóa loại xe SH Mode đã bị phá hỏng, không còn giá trị sử dụng, anh L không yêu cầu lấy lại nên cần tịch thu, tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại Iphone 12 Pro Max có số seri G6TF23FW0D5G màu vàng đã qua sử dụng, xác định là tài sản của bà Nguyễn Thị Y không sử dụng vào việc phạm tội nên cần trả lại cho bà Y.

Đối với chiếc xe mô tô Exciter màu đen BKS 12T1-177.33, L khai trộm cắp trên địa bàn huyện Tiên Du, Cơ quan CSĐT Công an huyện Quế Võ đã bàn giao cho Cơ quan CSĐT Công an huyện Tiên Du để điều tra theo quy định.

Đối với 08 ảnh do anh L giao nộp là chứng cứ nên cần lưu giữ trong hồ sơ vụ án.

[7] Liên quan trong vụ án này còn có:

Đối với hành vi trộm cắp khác Nguyễn Duy L khai nhận đã thực hiện cùng Nguyễn Duy Th1 và Nguyễn Duy Tr trên địa bàn huyện Tiên Du, Cơ quan CSĐT Công an huyện Quế Võ đã có công văn gửi Cơ quan CSĐT Công an huyện Tiên Du để điều tra theo quy định.

Đối với Nguyễn Duy Ch, Nguyễn Duy Tr và Nguyễn Duy Hậu, Cơ quan CSĐT Công an huyện Quế Võ đã tiến hành triệu tập nhiều lần nhưng các đối tượng không đến làm việc. Cơ quan CSĐT Công an huyện Quế Võ đã xác minh tại gia đình và địa phương nhưng Ch, Tr và H hiện không có mặt tại địa phương. Cơ quan CSĐT Công an huyện Quế Võ tiếp tục xác minh để xử lý theo quy định là phù hợp.

Đối với bà Nguyễn Thị L (là mẹ đẻ Nguyễn Duy H) không biết chiếc xe mô tô Honda Wave màu trắng đen bạc BKS 98E1-586.67 để ở nhà bà do L và Tr trộm cắp mà có nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Quế Võ không xử lý là phù hợp.

Đối với chiếc xe mô tô Honda Wave màu trắng BKS 29S6-790.09 L sử dụng đi trộm cắp tài sản ngày 11/3/2021 và 27/4/2021, quá trình điều tra xác định là tài sản của ông Nguyễn Duy L1 (là bố đẻ L), ông L1 không biết L sử dụng để đi trộm cắp tài sản. Hiện chiếc xe trên ông L1 đã bán cho một người không quen biết nên không thu hồi được và không xem xét xử lý đối với ông L1 là phù hợp.

Đối với chiếc xe Honda Wave màu đen của Tr sử dụng đi trộm cắp tài sản ngày 10/5/2021 (L không nhớ BKS), Cơ quan CSĐT Công an huyện Quế Võ tiếp tục xác minh để xử lý theo quy định.

Đối với người đàn ông mua xe Honda Wave màu xanh đen bạc BKS 97B1- 940.47 do Th bán, Th không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể ở đâu, Cơ quan CSĐT Công an huyện Quế Võ tiếp tục xác minh, làm rõ để xử lý theo quy định.

Đối với chiếc điện thoại Iphone 6 của L dùng để liên lạc khi thực hiện hành vi phạm tội, quá trình L bỏ chạy đã làm rơi mất đến nay không thu hồi được.

[8] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Duy L và Nguyễn Duy Th phạm tội “Trộm cắp tài sản.

2. Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; điểm b,r,s khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 17, Điều 91, Điều 101, Điều 38 Bộ luật hình sự; Điều 136, Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án xử phạt: Bị cáo Nguyễn Duy L 24 tháng tù. Tổng hợp với 03 tháng tù tại Bản án số: 150/2021/HSPT ngày 11/3/2021 của TAND thành phố Hà Nội buộc L phải chấp hành 27 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 11/5/2021. Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để bảo đảm thi hành án.

Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm b,r,s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 57, Điều 17, Điều 58, Điều 38 Bộ luật hình sự; Điều 136, Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án xử phạt: Bị cáo Nguyễn Duy Th 08 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 11/5/2021. Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để bảo đảm thi hành án.

3. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 BLHS, Điều 584, 585, 586, 587 và 589 Bộ luật dân sự:

- Buộc bị cáo Nguyễn Duy L và Nguyễn Duy Th phải liên đới bồi thường cho anh Hoàng Sỹ L số tiền 12.000.000đ (Mười hai triệu đồng), trong đó mỗi bị cáo pH bồi thường số tiền 6.000.000đ (Sáu triệu đồng).

- Buộc bị cáo Nguyễn Duy L phải bồi thường cho ông Hoàng Công T số tiền 22.000.000đ (Hai mươi hai triệu đồng). Bị cáo L có quyền yêu cầu Nguyễn Đình Ch có trách nhiệm hoàn trả một phần số tiền trên cho bị cáo khi chứng minh được Ch có hành vi cùng bị cáo thực hiện việc trộm cắp chiếc xe Dream thái màu nâu BKS 99F1-8880 bằng một vụ án dân sự khác.

Trường hợp bị cáo L không đủ tài sản để bồi thường thì ông Nguyễn Duy L1 và bà Nguyễn Thị Y là bố mẹ đẻ của bị cáo phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.

Xác nhận ông Nguyễn Duy Ng (bố bị cáo Th) đã tự nguyện nộp 6.200.000đ (Sáu triệu hai trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0006155 ngày 16/8/2021 và bà Nguyễn Thị Y (mẹ bị cáo L) đã tự nguyện nộp 10.200.000đ (Mười triệu hai trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0006156 ngày 20/8/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Quế Võ.

4. Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS:

- Tịch thu tiêu hủy 01 tay công hình chữ “L” bằng kim loại, kích thước dài 14,5cm, vỏ tay cần bằng cao su có màu đen viền đỏ; 02 đầu vam có hai cạnh bằng kim loại kích thước dài 7,5cm và 01 ổ khóa loại xe SH Mode đã bị phá hỏng.

- Trả lại cho bà Nguyễn Thị Y 01 điện thoại Iphone Pro Max có số seri G6TF23FW0D5G màu vàng đã qua sử dụng.

Toàn bộ tang vật được bàn giao theo biên bản bàn giao vật chứng ngày 26/7/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.

- Lưu giữ trong hồ sơ vụ án 08 ảnh.

5. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Duy L và Nguyễn Duy Th mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST. Bị cáo L phải chịu 900.000đ án phí DSST.

Các bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án tống đạt hợp lệ./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 128/2021/HS-ST

Số hiệu:128/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Võ - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về