Bản án về tội trộm cắp tài sản số 125/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRÙNG KHÁNH, TỈNH CAO BẰNG

BẢN ÁN 125/2021/HS-ST NGÀY 09/12/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 12 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số 121/2021/TLST - HS ngày 10 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 120/2021/QĐXXST - HS ngày 26 tháng 11 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Ngân Bá D; Giới tính: Nam; Sinh ngày 17 tháng 12 năm 1989 tại huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng;

HKTT và chỗ ở: xóm P, xã Chí Viễn, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Tày; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ học vấn: 8/12; Con ông: Ngân Bá Ch (sinh năm 1952); Con bà: Lâm Thị Ch (đã chết); Mẹ kế: Phan Thị B (sinh năm: 1952); Vợ, con: Chưa có; Tiền sự: Không;

Tiền án: 02 tiền án, cụ thể: Ngày 25/10/2018 bị Toà án nhân dân huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng (nay là Tòa án nhân dân huyện Quảng Hòa, tỉnh Cao Bằng) xử phạt 09 tháng tù về Tội trộm cắp tài sản; Ngày 08/9/2020 bị Toà án nhân dân thành phố Cao Bằng xử phạt 12 tháng tù về Tội trộm cắp tài sản.

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 06/9/2021, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. (Có mặt)

2. Bùi Chí H; Giới tính: Nam; Sinh ngày 04 tháng 10 năm 1992 tại huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng;

HKTT và chỗ ở: xóm P, xã Chí Viễn, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Tày; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không nghề; Trình độ học vấn: 10/12; Con ông: Bùi Xuân C (sinh năm 1957); Con bà: Nông Thị S (sinh năm 1960); Vợ, con: Chưa có; Tiền sự: Không;

Tiền án: 01 tiền án, ngày 18/6/2020 bị Tòa án nhân dân huyện Trùng Khánh xử phạt 12 tháng tù về Tội trộm cắp tài sản.

Nhân thân: Ngày 17/01/2020 bị Tòa án nhân dân huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc.

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 07/9/2021, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. (Có mặt).

- Bị hại:

- Ngân Bá Ch, sinh năm: 1952;

- Phan Thị B, sinh năm: 1952;

- Nông Thị L, sinh năm 1991.

Cùng trú tại: xóm P, xã Chí Viễn, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. (Đều có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Cấn Thị Thúy A; sinh năm: 1972. (Có mặt) + Hoàng Thị L1, sinh năm: 1973; (Vắng mặt có lý do) Cùng trú tại: xóm P, xã Chí Viễn, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng.

+ Hoàng Thị L2; sinh năm: 1982.

Trú tại: xóm N, xã Chí Viễn, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng.

(Vắng mặt có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngân Bá D, sinh năm 1989, trú tại xóm P, xã Chí Viễn, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng có 02 tiền án về Tội trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích. Bùi Chí H, sinh năm 1992, trú tại xóm P, xã Chí Viễn, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng 01 tiền án về Tội trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích.

Khoảng 15 giờ ngày 20/8/2021, Ngân Bá D đi bộ một mình từ nhà ra đình chợ Pò Tấu. Tại đây, D gặp Bùi Chí H, H rủ D đi trộm cắp tài sản. Sau khi bàn bạc thống nhất xong, H và D đi bộ đến nhà chị L ở cùng xóm. H ở ngoài quan sát. Còn D trèo lên khe hở trước mái nhà để vào nhà. Khi vào trong, D lấy 01 (một) chiếc điện thoại di động trên giường ngủ ở giữa nhà cho vào túi quần. Sau đó, D xách 01 (một) máy bơm nước và 01 (một) bao gạo ở cạnh đầu giường mở cửa chính đưa ra ngoài cho H. Sau đó, H mang máy bơm và bao gạo đi bán cho bà Hoàng Thị L1 sinh năm 1973, trú tại xóm P, xã Chí Viễn, huyện Trùng Khánh được 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng). Số tiền có được, H và D dùng để đi mua ma túy để sử dụng. Ngày 21/8/2021, D mang chiếc điện thoại trộm được đến nhà chị Cấn Thị Thúy A sinh năm 1972, trú tại xóm P, xã Chí Viễn, huyện Trùng Khánh bán được 100.000 đồng (một trăm nghìn đồng).

Ngày 09/10/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trùng Khánh ra văn bản yêu cầu định giá tài sản. Tại kết luận định giá tài sản số 42/KL-HĐĐGTS ngày 17/9/2021 của Hội đồng định giá tài sản huyện Trùng Khánh kết luận, giá trị tại thời điểm trộm cắp của 01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu ITEL giá 133.000 đồng (một trăm ba mươi ba nghìn đồng); 01 (một) máy bơm tõm màu trắng bạc giá 1.040.000 đồng (một triệu không trăm bốn mươi nghìn đồng); 01 (một) bao gạo nếp 16kg giá 272.000 đồng (hai trăm bảy mươi hai nghìn đồng). Tổng giá trị tài sản trộm cắp được là 1.445.000 (một triệu một trăm bốn năm nghìn đồng).

Khoảng 22 giờ ngày 05/9/2021, tại nhà ở của D ở xóm P, xã Chí Viễn, huyện Trùng Khánh, D đã lấy trộm của ông Ngân Bá Ch và bà Phan Thị B là bố mẹ của D 02 (hai) chậu nhôm và mang đi bán cho chị Hoàng Thị L2 sinh năm 1982, trú tại xóm N, xã Chí Viễn, huyện Trùng Khánh được 110.000 đồng (một trăm mười nghìn đồng). Toàn bộ số tiền này D dùng để đi mua ma túy về sử dụng.

Tại kết luận định giá tài sản số 50/KL-HĐĐGTS ngày 25/10/2021 của Hội đồng định giá tài sản huyện Trùng Khánh kết luận 02 (hai) chậu nhôm màu trắng xám tại thời điểm trộm cắp có giá trị 110.000 đồng (một trăm mười nghìn đồng).

Qua xác minh làm rõ, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trùng Khánh trả lại 01 (một) điện thoại di động, 01 (một) máy bơm tõm và 01 (một) bao gạo nếp cho chị Nông Thị L; trả lại 02 (hai) chậu nhôm cho ông Ngân Bá Ch là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Tại bản cáo trạng số 123/CT-VKSTK ngày 09 tháng 11 năm 2021 Viện kiểm sát nhân dân huyện Trùng Khánh đã truy tố các bị cáo Ngân Bá D và Bùi Chí H ra trước Tòa án nhân dân huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng để xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Các bị cáo Ngân Bá D và Bùi Chí H thừa nhận Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trùng Khánh đã phản ánh đúng hành vi phạm tội của các bị cáo.

Tại cơ quan Điều tra và tại phiên tòa, các bị hại không đề nghị, yêu cầu bồi thường đối với các bị cáo; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Cấn Thị Thúy A không yêu cầu các bị cáo trả lại số tiền mà các bị cáo đã nhận từ việc bán tài sản trộm cắp có được và cũng không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Tại đơn xin xét xử vắng mặt, những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Hoàng Thị L1, Hoàng Thị L2 không yêu cầu các bị cáo trả lại số tiền mà các bị cáo đã nhận từ việc bán tài sản trộm cắp có được và cũng không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Kết thúc phần xét hỏi tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trùng Khánh giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo Ngân Bá D và Bùi Chí H về tội “Trộm cắp tài sảnvà đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Ngân Bá D và Bùi Chí H phạm Tội trộm cắp tài sản theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Về hình phạt: áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 38, Điều 58 Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo Ngân Bá D, Bùi Chí H. Xử phạt mỗi bị cáo từ 12 (mười hai) tháng tù đến 18 (mười tám) tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng đối với các bị cáo.

Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Các bị hại, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Cấn Thị Thúy A nhất trí với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trùng và không có ý kiến gì tranh luận thêm.

Các bị cáo không có ý kiến tranh luận. Khi được nói lời sau cùng, các bị cáo không có ý kiến gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Trùng Khánh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trùng Khánh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Qua quá trình xét hỏi và tranh luận công khai tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án, đúng như bản Cáo trạng của Viện kiểm sát đã nêu và phù hợp với vật chứng đã thu được của các bị cáo D, H. Cụ thể: Khoảng 15 giờ ngày 20/8/2021 tại xóm Pò Tấu, xã Chí Viễn, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng, Ngân Bá D và Bùi Chí H có hành vi trộm cắp của chị Nông Thị L 01 (một) máy bơm tõm, 01 (một) bao gạo nếp, 01 (một) điện thoại di động. Giá trị các tài sản trên là 1.445.000 đồng (một triệu bốn trăm bốn lăm nghìn đồng).

Ngày 05/9/2021 tại xóm Pò Tấu, xã Chí Viễn, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng, Ngân Bá D có hành vi trộm cắp của vợ ông Ngân Bá Ch và bà Phan Thị B 02 (hai) chiếc chậu nhôm có giá trị 110.000 đồng (một trăm mười nghìn đồng).

Do vậy, Hội đồng xét xử có đầy đủ căn cứ để kết tội các bị cáo Ngân Bá D và Bùi Chí H phạm Tội trộm cắp tài sản theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện Trùng Khánh đã truy tố các bị cáo về tội danh và Điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo: Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội vì đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác một cách trái pháp luật, được pháp luật bảo vệ. Hành vi của các bị cáo đã gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự, an toàn xã hội ở địa phương, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân. Các bị cáo D, H nhận thức được việc làm của mình là sai, trái pháp luật nhưng do ham chơi dẫn đến lệ thuộc vào ma túy, lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu trong việc quản lý tài sản để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản bán mua ma túy. Trong vụ án này, bị cáo H là người khởi xướng, rủ bị cáo D cùng thực hiện hành vi trộm cắp tài sản và là người trực tiếp đi bán để lấy tiền mua ma túy. Khi được bị cáo H rủ rê, bị cáo D cùng thực hiện hành vi trộm cắp và là người thực hiện tích cực, trực tiếp trèo vào nhà của chị L để trộm cắp và chuyển đồ trộm cắp ra cho bị cáo H. Ngoài ra, ngày 05/9/2021 bị cáo D còn một mình thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của ông Ngân Bá Ch và bà Phan Thị B là bố mẹ của bị cáo D 02 (hai) chậu nhôm và đem bán lấy tiền tiêu sài cá nhân.

Hội đồng xét xử xét thấy, mặc dù các bị cáo trộm cắp tài sản có tổng giá trị 1.445.000 đồng (một triệu bốn trăm bốn lăm nghìn đồng) nhưng cả hai bị cáo đều đã bị kết án về Tội trộm cắp tài sản và chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

ngoài ra, bị cáo D còn một mình thực hiện hành vi trộm cắp tài sản có giá trị 110.000 đồng (một trăm mười nghìn đồng) là tình tiết định khung quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn mới tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi của các bị cáo, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định nhằm răn đe, giáo dục riêng đối với các bị cáo và đấu tranh phòng ngừa chung.

[4] Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về nhân thân: Cả hai bị cáo Ngân Bá D và Bùi Chí H đều nghiện ma túy, có nhân thân xấu.

Bị cáo Ngân Bá D có 02 tiền án, cụ thể: Ngày 25/10/2018 bị Toà án nhân dân huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng (nay là Tòa án nhân dân huyện Quảng Hòa, tỉnh Cao Bằng) xử phạt 09 tháng tù về Tội trộm cắp tài sản; Ngày 08/9/2020 bị Toà án nhân dân thành phố Cao Bằng xử phạt 12 tháng tù về Tội trộm cắp tài sản.

Bị cáo Bùi Chí H có 01 tiền án, ngày 18/6/2020 bị Tòa án nhân dân huyện Trùng Khánh xử phạt 12 tháng tù về Tội trộm cắp tài sản; Ngày 17/01/2020 bị Tòa án nhân dân huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc.

Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình và tỏ ra ăn năn hối cải. Do đó, khi quyết định hình phạt cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo D và bị cáo H.

Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo đều không có.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Ngân Bá D và Bùi Chí H phạm Tội trộm cắp tài sản và xử phạt mỗi bị cáo Ngân Bá D, Bùi Chí H, mỗi bị cáo từ 12 (mười hai) tháng tù đến 18 (mười tám) tháng tù. Xét thấy mức đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[5] Các nhận định khác:

Ngày 05/10/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trùng Khánh đã trả lại tài sản cho các chủ sở hữu là đúng theo quy định của pháp luật. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết. Cụ thể:

Trả lại 01 (một) điện thoại di động dạng bàn phím, nhãn hiệu ITEL, màu xanh tím than, số IMEI 1: 356525117853461, số IMEI 2: 356525117853479, điện thoại cũ đã qua sử dụng; 01 (một) máy bơm chìm (máy bơm tõm) màu trắng bạc. Trên bề mặt bơm có nhiều chữ Trung Quốc, khối lượng 7,3 ki lô gam, máy bơm cũ đã qua sử dụng; 01 (một) bao tài dứa chứa 16 ki lô gam gạo nếp cho chị Nông Thị L, sinh năm 1991 (trú tại: xóm P, xã Chí Viễn, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng).

Trả lại 02 (hai) chậu nhôm, trong đó có 01 (một) chậu nhôm màu xám có đường kính mặt là 80 xen ti mét, chậu nhôm đã qua sử dụng; 01 (một) chậu nhôm màu xám, có đường kính mặt là 60 xen ti mét, chậu nhôm cũ đã qua sử dụng.

Đối với Hoàng Thị L1, Cấn Thị Thúy A, Hoàng Thị L2 khi mua các tài sản trên với hai bị cáo không biết là tài sản do trộm cắp mà có. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trùng Khánh không đề nghị xử lý đối với Hoàng Thị L1, Cấn Thị Thúy A, Hoàng Thị L2 trong vụ án này là đúng theo quy định của pháp luật.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173, ngoài hình phạt chính các bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, các bị cáo đều là đối tượng nghiện ma túy, không có nguồn thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị hại xác nhận đã nhận đủ tài sản bị trộm cắp và không đề nghị, yêu cầu bồi thường đối với các bị cáo. Đối với những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Hoàng Thị L1, Cấn Thị Thúy A, Hoàng Thị L2 bỏ tiền mua các tài sản do trộm cắp được với các bị cáo. Tại phiên tòa hôm nay, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Cấn Thị Thúy A đã được Hội đồng xét xử giải thích quyền được đòi lại số tiền trên. Tuy nhiên, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có ý kiến là do các bị cáo đều là các đối tượng nghiện ma túy, nên không yêu cầu các bị cáo phải trả lại khoản tiền này và cũng không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường. Tại đơn xin xét xử vắng mặt, những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Hoàng Thị L1, Hoàng Thị L2 cũng không yêu cầu các bị cáo trả lại số tiền mà các bị cáo đã nhận từ việc bán tài sản trộm cắp có được và cũng không yêu cầu bồi thường gì thêm. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Về án phí: Các bị cáo Ngân Bá D và Bùi Chí H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, 333 của Bộ luật tố tụng Hình sự. Các bị cáo, các bị hại, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Ngân Bá D và Bùi Chí H phạm Tội trộm cắp tài sản.

Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 38, Điều 58 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Ngân Bá D;

Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 38, Điều 58 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Bùi Chí H.

2. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Ngân Bá D 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn chấp hành án phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam ngày 06/9/2021;

Xử phạt bị cáo Bùi Chí H 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn chấp hành án phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam ngày 07/9/2021;

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo Ngân Bá D và Bùi Chí H.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc các bị cáo Ngân Bá D và Bùi Chí H, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm sung vào Ngân sách Nhà nước.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 của Bộ luật tố tụng Hình sự. Án xử công khai sơ thẩm, có mặt các bị cáo, các bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Cấn Thị Thúy A. Các bị cáo Ngân Bá D và Bùi Chí H, các bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Cấn Thị Thúy A có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng đối với những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Hoàng Thị L1, Hoàng Thị L2 vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 125/2021/HS-ST

Số hiệu:125/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trùng Khánh - Cao Bằng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về