Bản án về tội trộm cắp tài sản số 122/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TÂY NINH, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 122/2021/HS-ST NGÀY 30/09/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh T, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 106/2021/HSST ngày 09 tháng 9 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 111/2021/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: TÔ NGỌC N, sinh ngày 25/7/1987 tại tỉnh TH.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn 3, xã Q, huyện X, tỉnh TH; địa chỉ tạm trú: Khu phố 7, Phường 7, thành phố TN, tỉnh T; nghề nghiệp: không có; trình độ văn hóa: 6/12; quốc tịch: Việt N; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; giới tính: N; cha: Tô Ngọc N, sinh năm 1965, mẹ: Tô Thị Qu, sinh năm 1966 (chết); vợ: Phạm Thị L, sinh năm 1990 (chết), 01 người con, sinh năm 2008 (chết); tiền án, tiền sự: không có;

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 06/7/2021, chuyển sang tạm giam từ ngày 12/7/2021 đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Bị hại: Chị Nguyễn Xuân Y, sinh năm 1983; địa chỉ: Số nhà 197/4, Tổ 1, khu phố N, phường S, thành phố TN, tỉnh T - (có đơn đề nghị xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do nghiện ma túy nên Tô Ngọc N nảy sinh ý định tìm tài sản của người khác để sơ hở trộm cắp bán lấy tiền tiêu xài và mua ma túy sử dụng. Khoảng 13 giờ ngày 06/7/2021, Tô Ngọc N mang theo dụng cụ bẻ khóa tự chế bằng kim loại đến khu vực chợ Nnh Sơn để tìm tài sản lấy trộm. Khi đến nhà chị Nguyễn Xuân Y, số 197/4, Tổ 1, khu phố N, phường S, thành phố TN, tỉnh T, N nhìn thấy cửa nhà mở, bên trong phòng khách dựng xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, biển số 71S1-xxxx, trên xe có cắm sẵn chìa khóa, không người trông coi nên N lén lút đi vào nhà đẩy xe ra ngoài, khi đẩy được khoảng 05m thì chị Y đang ở bên trong nhà nhìn thấy nên chạy ra nắm xe giữ lại đồng thời truy hô, N đề máy xe tẩu thoát nhưng xe không nổ máy nên bỏ xe chạy tẩu thoát, bị người dân đuổi theo khoảng 50m thì bắt giữ được N và điện báo công an.

* Vật chứng thu giữ:

- 01 xe mô tô hiệu Honda Wave, biển số 71S1-xxxx do chị Nguyễn Xuân Y đứng tên trong giấy đăng ký chủ sở hữu, màu sơn xanh- đen, số máy: 9E-5392959; số khung: 67Y-292942;

- 01 bộ dụng cụ bẻ khóa xe tự chế bằng kim loại;

- 01 giấy căn cước công dân số 038087xxxx02 tên Tô Ngọc N;

- 01 bơm tiêm bằng nhựa dung tích 40cc;

- 01 điện thoại di động hiệu Itel, màu đen, số imei: 358625108315484; 358625108315492;

- Số tiền 2.894.000 đồng.

Tại kết luận định giá tài sản số: 39/KLĐG-TTHS ngày 08/7/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố T kết luận: Xe gắn máy nhãn hiệu Honda Wave, màu sơn: xanh-đen, biển số 71S1-xxxx có giá trị 6.000.000 đồng.

* Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra, chị Nguyễn Xuân Y đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại bản cáo trạng số: 108/CT-VKS.TPTN ngày 08 tháng 9 năm 2021 Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh T đã truy tố bị cáo Tô Ngọc N về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh T trong phần tranh luận đã giữ nguyên Quyết định truy tố bị cáo Tô Ngọc N về tội “Trộm cắp tài sản”, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Tô Ngọc N mức án từ 09 tháng đến 12 tháng tù; miễn áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận người bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì khác.

Áp dụng các Điều 46, 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật: Tịch thu tiêu hủy dụng cụ bẻ khóa xe tự chế bằng kim loại và 01 bơm tiêm bằng nhựa; trả lại cho bị cáo 01 giấy căn cước công dân mang tên Tô Ngọc N, 01 điện thoại di động và số tiền 2.894.000 đồng.

* Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đã ăn năn hối cải, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về gia đình, làm người tốt, sống có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở xác định:

Ngày 06/7/2021, tại nhà số 197/4, Tổ 1, khu phố N, phường S, thành phố TN, tỉnh T, Tô Ngọc N đã lén lút lấy trộm xe mô tô hiệu Honda Wave, biển số 71S1-xxxx của chị Nguyễn Xuân Y, trị giá 6.000.000 đồng thì bị phát hiện bắt quả tang. Hành vi của bị cáo Tô Ngọc N đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

[3] Bị cáo Tô Ngọc N là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, do muốn chiếm đoạt tài sản của người khác bán lấy tiền tiêu xài và mua ma túy sử dụng nên bị cáo lợi dụng sự sơ hở, thiếu cảnh giác của chủ sở hữu tài sản đã lén lút lấy trộm tài sản của người khác đem bán, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân thành phố T truy tố bị cáo Tô Ngọc N về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ đúng pháp luật.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ, làm mất trật tự xã hội tại địa phương, bị cáo ý thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng do chay lười lao động, muốn chiếm đoạt tài sản của người khác bán lấy tiền tiêu xài, mua ma túy sử dụng, xem thường pháp luật, nên dẫn bị cáo vào con đường phạm tội. Vì vậy, cần có mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm. Do đó, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để trừng trị và giáo dục ý thức pháp luật để sau khi chấp hành xong hình phạt tù bị cáo sẽ trở thành công dân tốt, sống có ích cho gia đình và xã hội.

[5] Khi quyết định hình phạt có xem xét đến tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về tình tiết tăng nặng: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thật thà khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Do bị cáo không có tài sản nên được miễn áp dụng hình phạt bổ sung.

[6] Về xử lý vật chứng:

- 01 bộ dụng cụ bẻ khóa tự chế bằng kim loại; 01 bơm kim tiêm bằng nhựa, không còn giá trị sử dụng, nên tịch thu tiêu hủy.

- 01 giấy căn cước công dân số 038087xxxx02 tên Tô Ngọc N là giấy tờ tùy thân của bị cáo; 01 điện thoại di động hiệu Itel, màu đen và số tiền 2.894.000 đồng không liên quan đến việc phạm tội, nên trả lại cho bị cáo.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Chị Nguyễn Xuân Y đã nhận lại tài sản, không yêu cầu gì khác, nên không đặt ra giải quyết.

[8] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Tô Ngọc N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Tô Ngọc N 09 (chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 06/7/2021.

Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo vì không có khả năng thi hành.

2. Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận chị Nguyễn Xuân Y đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại.

3. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 bộ dụng cụ bẻ khóa xe tự chế bằng kim loại; 01 bơm tiêm bằng nhựa dung tích 40cc.

- Trả lại cho bị cáo: 01 giấy căn cước công dân số 038087xxxx02 tên Tô Ngọc N; 01 điện thoại di động hiệu Itel, màu đen, số Imei: 358625108315484; 358625108315492 và số tiền 2.894.000 đồng (hai triệu tám trăm chín mươi bốn nghìn đồng).

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án:

Bị cáo Tô Ngọc N phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế theo qui định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh T để xét xử phúc thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng chị Nguyễn Xuân Y vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

38
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 122/2021/HS-ST

Số hiệu:122/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tây Ninh - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về