Bản án về tội trộm cắp tài sản số 12/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỤC NAM, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 12/2023/HS-ST NGÀY 16/03/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 3 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang, Tòa án nhân dân huyện Lục Nam xét xử sơ thẩm trực tuyến công khai vụ án hình sự thụ lý số: 08/2023/TLST-HS ngày 22 tháng 02 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2023/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 3 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trịnh Văn T, sinh năm 2003; Tên gọi khác: Không; Giới tính:

Nam.

- Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn N, xã Đ, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang.

- Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn Giáo: Không.

- Đảng, đoàn thể: Không; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ học vấn: 9/12.

- Bố đẻ: Ngô Hồng Q, sinh năm 1970.

- Mẹ đẻ: Trịnh Thị H, sinh năm 1977.

- Đảng, chính quyền, đoàn thể: Không.

- Gia đình có 01 mình bị can.

- Vợ, con: Chưa có.

- Tiền sự, tiền sự: Chưa có.

- Bị cáo đầu thú, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/12/2022 đến nay. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Giang (có mặt).

* Bị hại: Anh Nguyễn Hồng Th, sinh năm 1997 Địa chỉ: Thôn V, xã Kh, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang. (Vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trịnh Văn T là nhân viên thợ cắt tóc tại tiệm cắt tóc “Duy T” của anh Nguyễn Hồng Th. Hàng ngày, Th làm việc và ăn ngủ tại tiệm tóc của anh T.

Khoảng 17 giờ 00 phút ngày 14/12/2022, anh T cắm sạc điện thoại Iphone 13 Pro Max màu vàng gold (loại 128Gb) và để điện thoại trong ngăn kéo quầy lễ tân của tiệm tóc rồi đi tắm. Th thấy anh T sạc điện thoại và đi tắm nên đã nảy sinh ý định trộm cắp chiếc điện thoại của anh T để bán lấy tiền ăn tiêu. Do biết trong tiệm tóc có lắp camera, Th đi đến bảng điện đóng attomat ngắt nguồn điện, mục đích để camera không hoạt động được. Sau đó, Th đi đến quầy lễ tân mở ngăn kéo, rút sạc điện thoại ra rồi trộm cắp chiếc điện thoại Iphone 13 Pro Max mang vào trong phòng vệ sinh nhà anh T và tắt nguồn điện thoại đi. Sau đó, Th lấy 01 túi nilon màu xanh bọc chiếc điện thoại Iphone 13 Pro Max lại (buộc thắt nút đầu túi nilon) và lật nắp đậy ngăn chứa nước bồn cầu vệ sinh, thả túi nilon bọc chiếc điện thoại trên vào đó để cất giấu sau đó sẽ mang chiếc điện thoại đi bán lấy tiền ăn tiêu. Sau khi cất giấu chiếc điện thoại xong, để tránh sự nghi ngờ của anh T, Th tự giấu chiếc điện thoại Iphone 7 Plus của Th dưới bếp gas phòng bếp nhà anh T, nếu anh T hỏi, Th sẽ lấy lý do điện thoại của Th cũng bị mất trộm cùng điện thoại của anh T. Trộm cắp xong, Th bật attomat điện lên và đi ra ngoài tiệm cắt tóc.

Đối với anh T sau khi tắm xong vào lấy điện thoại dùng thì phát hiện bị mất, anh T hỏi Th thì Th không thừa nhận việc đã trộm cắp và vờ đi tìm điện thoại của mình rồi bảo anh T là điện thoại của Th cũng bị mất. Sau khi bị mất điện thoại, anh T đến Công an xã Khám Lạng, huyện Lục Nam trình báo vụ việc.

Cùng ngày, biết hành vi phạm tội của mình đã bị phát hiện và không thể che giấu được, Trịnh Văn T đến Công an xã Khám Lạng đầu thú và khai nhận hành vi trộm cắp điện thoại Iphone 13 Pro Max của anh T nêu trên; Th giao nộp: 01 căn cước công dân mang tên Trịnh Văn T.

Căn cứ lời khai của Trịnh Văn T, Công an xã Khám Lạng đã tiến hành kiểm tra hiện trường, phát hiện và thu giữ tại ngăn chứa nước bồn cầu vệ sinh trong phòng vệ sinh và phòng bếp nhà anh T: 01 điện thoại Iphone 13 Pro Max màu vàng gold, loại 128Gb bị bám dính nước (được bọc trong túi nilon màu xanh); 01 điện thoại Iphone 7 Plus màu trắng hồng (của Th). Công an xã Khám Lạng đã bàn giao hồ sơ vụ việc cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lục Nam để giải quyết theo thẩm quyền.

Kết quả khám nghiệm hiện trường: Hiện trường vụ án xác định là khu nhà ở, cửa hàng kinh doanh (cắt tóc, spa) của gia đình anh Nguyễn Hồng Th ở Thôn V, xã Kh, huyện Lục Nam. Phía Nam tiếp giáp đường bê tông liên thôn; phía Bắc tiếp giáp cánh đồng thôn Vàng; phía Đông tiếp giáp bãi đất trống; phía Tây tiếp giáp gia đình anh Nguyễn Văn N. Cửa hàng kinh doanh dạng nhà ống, trên lợp mái tôn, cửa chính hướng nam, có 02 gian để kinh doanh. Gian kinh doanh biển “Ngọc Huệ Spa” có cửa chính ở phía Nam, kích thước (291x263)cm làm bằng kính; Gian kinh doanh biển “Hair salon Duy T” có cửa chính phía Nam, có 02 lớp cửa, bên ngoài là cửa kim loại, bên trong là cửa kim loại kính kích thước (179x231)cm; Tại vị trí trên tường phía Nam cách nền 1,11m, cách tường phía Tây 0,18m có 01 hộp kỹ thuật bên trong có 01 attomat đang ở trạng T đóng.

Tại vị trí cách tường phía Nam 0,18m, cách tường phía Tây 0,62m gian cắt tóc (gắn biển Ngọc Huệ Spa) là quầy thu ngân làm bằng gỗ, trên mặt quầy có máy tính, đôi loa và ngăn kéo chứa nhiều vật dụng khác.

Nhà vệ sinh phía sau nhà ở có 01 bồn cầu làm bằng sứ, màu trắng, nắp đang đóng, trên nắp là ngăn chứa nước.

Kết quả kiểm tra tình trạng chiếc điện thoại Iphone 13 Pro Max mà Th trộm cắp sau khi bị ngâm nước (được bọc trong túi nilon) xác định: Điện thoại bị hỏng Camera sau; hư hỏng hoàn toàn phần mềm Face ID.

Cơ quan điều tra đã có văn bản yêu cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lục Nam định giá tài sản mà Th đã trộm cắp.

Bản Kết luận định giá số 96 ngày 15/12/2022 và Kết luận định giá số 01 ngày 08/01/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lục Nam kết luận:

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 13 Promax, màu vàng gold, dung lượng 128GB trị giá 18.900.000 đồng;

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 13 Promax, màu vàng gold, dung lượng 128GB bị hỏng Camera sau, bị hư hỏng hoàn toàn Face ID có giá trị là 10.000.000 đồng. (Bút lục 22, 24).

Quá trình điều tra, bị can Trịnh Văn T khai báo thành khẩn hành vi phạm tội nêu trên. Cơ quan điều tra đã dẫn giải Th đi chỉ xác định vị trí trộm cắp điện thoại tại quán cắt tóc của anh T; thực nghiệm lại hành vi trộm cắp và cất giấu điện thoại. Kết quả, Th chỉ dẫn và xác định đúng vị trí mà anh T để điện thoại sau đó bị mất, đồng thời thực hiện thuần thục các động tác, tư thế trộm cắp điện thoại sau đó mang cất giấu vào bồn cầu chứa nước trong phòng vệ sinh nhà anh T, phù hợp với lời khai bị can và hiện trường vụ án.

Về trách nhiệm dân sự: Anh T yêu cầu Th phải bồi thường 8.900.000 đồng do điện thoại đã bị hỏng Camera sau và Face ID.

Về xử lý vật chứng:

- Ngày 13/01/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lục Nam đã xử lý vật chứng trả lại anh Nguyễn Hồng Th chiếc điện thoại Iphone Th đã trộm cắp (đã bị hư hỏng Camera sau và Face ID).

- Vật chứng chuyển xử lý cùng vụ án gồm: 01 điện thoại Iphone 7 Plus màu trắng hồng; 01 căn cước công dân mang tên Trịnh Văn T và 01 túi nilon màu xanh.

Tại bản Cáo trạng số 10/CT-VKS ngày 20 tháng 02 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục Nam truy tố bị cáo Trịnh Văn T về tội “Trộm cắp tài sản”theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Kiểm sát viên phát biểu luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo và đề nghị: Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trịnh Văn T từ 09 tháng đến 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Th bồi thường cho anh T số tiền 8.900.000 đồng. Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 túi nilon màu xanh. Trả lại cho bị cáo 01 căn cước công dân mang tên Trịnh Văn T; Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại Iphone 7 Plus màu trắng hồng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án. Bị cáo Th phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Bị cáo Th tại phiên tòa trình bày: Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng đã nêu là đúng; bị cáo nhất trí với bản luận tội và quan điểm của đại diện Viện kiểm sát phát biểu tại phiên tòa, không có ý kiến tranh luận gì. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, xử phạt bị cáo mức án thấp nhất theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranhtụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên: Trong quá trình tiến hành tố tụng Điều tra viên, Kiểm sát viên thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn và các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ai tố cáo, khiếu nại gì. Hội đồng xét xử kết luận hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đều đúng quy định và hợp pháp.

[2] Về sự vắng mặt của người tham gia tố tụng: Bị hại là anh Nguyễn Hồng Th đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Xét thấy, trong quá trình điều tra anh T đã có đầy đủ lời khai nên việc vắng mặt của anh T không gây trở ngại cho việc xét xử. Căn cứ vào Điều 292 của Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án; Chủ tọa phiên tòa công bố lời khai của bị hại trong quá trình hỏi tại phiên tòa.

[3] Tại phiên tòa bị cáo Trịnh Văn T thành khẩn khai báo, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, vật chứng thu giữ được và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án; đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng hơn 17 giờ 00 phút ngày 14/12/2022, Trịnh Văn T có hành vi trộm cắp 01 chiếc điện thoại Iphone 13 Pro Max màu vàng gold (loại 128Gb) tại tiệm cắt tóc “Duy T” của anh Nguyễn Hồng Th ở Thôn V, xã Kh, huyện Lục Nam. Giá trị tài sản Th trộm cắp là 18.900.000 đồng (Bằng chữ: Mười tám triệu, chín trăm nghìn đồng).

[4] Về tính chất mức độ hành vi phạm tội: Thủ đoạn của bị cáo là lợi dụng sự sơ hở mất cảnh giác của bị hại trong việc quản lý, bảo vệ tài sản để thực hiện hành vi lén lút, chiếm đoạt tài sản với mục đích bán lấy tiền chi tiêu cá nhân. Hành vi trên của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, làm mất an ninh trật tự tại địa phương; bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. Do đó, hành vi của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục Nam truy tố bị cáo Trịnh Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[5] Đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo thấy:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đầu thú, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tôi lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Căn cứ vào nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt, mức hình phạt đối với bị cáo Th như đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục Nam đề nghị là phù hợp với tính chất, mức độ và hậu quả của hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra.

[6] Xét thấy bị cáo không có công việc và thu nhập ổn định, nên Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Th.

[7] Về xử lý vật chứng: Vật chứng thu giữ là 01 túi nilon màu xanh. Nay xác định không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy. Trả lại cho bị cáo 01 căn cước công dân mang tên Trịnh Văn T; Trả lại cho bị cáo Th 01 điện thoại Iphone 7 Plus màu trắng hồng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Th có hành vi trộm cắp 01 chiếc điện thoại Iphone 13 của anh T, giá trị trộm cắp là 18.900.000 đồng. Do bị cáo đã làm hư hỏng tài sản sau khi trộm cắp, căn cứ kết quả định giá tài sản, chiếc điện thoại trị giá 10.000.000 đồng do bị hỏng camera và Face ID, nên anh T yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền điện thoại bị thiệt hại do hư hỏng là: 18.900.000 đồng – 10.000.000 đồng = 8.900.000 đồng (Bằng chữ: Tám triệu chín trăm nghìn đồng) là có căn cứ chấp nhận.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và 8.900.000 đồng x 5% = 445.000 đồng án phí dân sự theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và khoản 1 Điều 38 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Trịnh Văn T 01 (Một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 15/12/2022).

2. Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 túi nilon màu xanh. Trả lại cho bị cáo 01 căn cước công dân mang tên Trịnh Văn T; Trả lại cho bị cáo Th 01 điện thoại Iphone 7 Plus màu trắng hồng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

3. Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự, Điều 589 Bộ luật dân sự: Buộc bị cáo Trịnh Văn T phải bồi thường cho anh Nguyễn Hồng Th số tiền 8.900.000 đồng (Bằng chữ: Tám triệu chín trăm nghìn đồng).

4. Bị cáo Trịnh Văn T phải chịu 200.000 đồng (Bằng chữ: Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm và 445.000 đồng (Bằng chữ: Bốn trăm bốn mươi lăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

13
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 12/2023/HS-ST

Số hiệu:12/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lục Nam - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về