TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PÁC NẶM, TỈNH BẮC KẠN
BẢN ÁN 12/2022/HS-ST NGÀY 22/06/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Trong ngày 22 tháng 6 năm 2022, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 06/2022/HSST ngày 14 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2022/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 5 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 10/2022/HSST-QĐ ngày 30/5/2022 đối với bị cáo:
Long Văn H, sinh ngày xx tháng xx năm 19xx tại huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn.
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn T, xã X, huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn.
Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 3/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch Việt Nam; Con ông Long Văn H và bà Cà Thị H; Có vợ là Ma Thị B, sinh năm 19xx và 02 con, con lớn sinh năm 20xx, con nhỏ sinh năm 20xx.
Tiền án: 01, ngày 21/9/2020 bị Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Kạn xét xử phúc thẩm, xử phạt 07 tháng tù về tội trộm cắp tài sản.
Tiền sự: Không.
Nhân thân: Năm 2007 bị Công an huyện Pác Nặm xử phạt vi phạm hành chính về hành vi gây rối trật tự công cộng. Năm 2009 đi cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm chữa bệnh - giáo dục - lao động xã hội tỉnh Bắc Kạn. Năm 2012 bị TAND huyện Pác Nặm xử phạt 24 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, đã được xóa án tích. Năm 2017 đi cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm chữa bệnh - giáo dục - lao động xã hội tỉnh Bắc Kạn. Ngày 13/6/2019 bị Công an xã X, huyện Pác Nặm xử phạt vi phạm hành chính về hành vi bạo lực gia đình.
Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 11/11/2021 đến ngày 09/6/2022 thì bị thay đổi biện pháp ngăn chặn tạm giam. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nguyễn Phương B - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Bắc Kạn. Có mặt
- Bị hại: Bà Ma Thị Q, sinh năm 19xx.
Địa chỉ: Thôn B, xã C, huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn. Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Anh Lý Văn G, sinh năm 19xx - Địa chỉ: Thôn N, xã N, huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn. Vắng mặt không lý do
Bà Cà Thị H, sinh năm 19xx - Địa chỉ: Thôn T, xã X, huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn. Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.
Ông Long Văn H, sinh năm 19xx - Địa chỉ: Thôn T, xã X, huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn. Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.
Bà Ma Thị B, sinh năm 19xx - Địa chỉ: Thôn T, xã X, huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn. Có mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 18 giờ ngày 26/8/2021, Long Văn H điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 33M4-xxxx chở theo Lý Văn G, sinh năm 19xx trú tại Thôn N, xã N, huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn từ xã N đi đến Thôn B, xã C, huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn để chơi. Khi đi đến khu vực N, thuộc Thôn B, xã C, huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn thì G bảo H dừng xe lại để tìm nước sử dụng ma túy bằng hình thức trích, H dừng xe lại và cùng G đi bộ vào lán chăn nuôi của bà Ma Thị Q, sinh năm 19xx là chị họ của H để sử dụng ma tuý. Tại đây H ngồi nghỉ, G sử dụng đèn điện thoại soi tìm nước thì phát hiện ở trong chuồng gà của bà Q có gà. Nảy sinh ý định lấy trộm gà về làm thịt để ăn, G rủ H cùng lấy trộm thì H đồng ý. Sau đó, G lấy được một chiếc bao tải dứa từ lán bà Q rồi một mình đến bắt gà, G bắt được 03 con gà mái, bẻ gãy cổ gà cho vào trong bao tải, lúc này H đi đến nên G đứng ra bên cạnh soi đèn để H bắt gà, H bắt được 04 con gà trống và 03 con gà mái cho vào trong bao tải của G đang cầm. Sau khi bắt được 10 con gà thì G cầm bao gà cùng H đi đến chỗ để xe và H điều khiển xe chở G cùng số gà đi về, khi đi đến thôn B, xã C, huyện B, tỉnh Bắc Kạn thì bị Công an xã C, huyện B kiểm tra phát hiện, bắt giữ và bàn giao cho Công an huyện Pác Nặm giải quyết theo quy định.
Tại biên bản cân trọng lượng gà hồi 01 giờ 10 phút ngày 27/8/2021 của Công an xã C, huyện B, tỉnh Bắc Kạn xác định: 04 con gà trống có trọng lượng 6,4kg (Sáu phảy bốn kilôgam); 06 con gà mái có khối lượng 7,1kg (Bảy phảy một kilôgam). Tổng 10 con gà có khối lượng là 13,5kg (Mười ba phảy năm kilôgam). Tại biên bản khám nghiệm hiện trường ngày 06/10/2021 xác định: Hiện trường vụ trộm cắp tài sản là tại khu vực chăn nuôi có diện tích 20m x 28m của gia đình bà Ma Thị Q, thuộc Thôn B, xã C, huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn, trong khu vực này phát hiện một chuồng gà được dựng bằng các cột tre và quây phên tre lợp bằng bạt dứa màu xanh, kích thước 2,10 x 2,15 x 1,60 mét.
Tại kết luận định giá tài sản số 19 ngày 22/9/2021 của Hội đồng định giá tài sản huyện Pác Nặm, kết luận: 04 (Bốn) con gà trống, màu lông đỏ tía, khối lượng 6,4kg (Sáu phẩy bốn kilôgam) trị giá là 704.000đ (Bảy trăm linh bốn nghìn đồng); 06 (Sáu) con gà mái, màu lông đỏ vàng sám, đỏ nâu đen, nâu đen, vàng xám xen lẫn, khối lượng 7,1kg (Bảy phẩy một kilôgam) trị giá 781.000đ (Bảy trăm tám một nghìn đồng). Tổng giá trị của 10 con gà tại thời điểm tháng 8 năm 2021 là 1.485.000đ (Một triệu bốn trăm tám năm ngìn đồng).
Kết quả điều tra vụ án xác định: Ngày 19/9/2012 bị cáo Long Văn H bị Tòa án nhân dân huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn xử phạt 24 tháng tù về tội trộm cắp tài sản, đã được xóa án tích; Ngày 21/9/2021 bị Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Kạn xét xử phúc thẩm xử phạt 07 tháng tù về tội trộm cắp tài sản; ngày 16/5/2021 H đã chấp hành xong các quyết định của Bản án nhưng chưa được xóa án tích.
Quá trình điều tra vụ án, bị cáo thành khẩn khai báo do vậy bị cáo được hưởng một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án.
Tại bản cáo trạng số 08/CT -VKSPN ngày 12/4/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Pác Nặm truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Pác Nặm để xét xử Long Văn H về tội "Trộm cắp tài sản" theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và nội dung bản cáo trạng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Pác Nặm giữ nguyên quan điểm truy tố như nội dung bản cáo trạng. Đề nghị xét xử tuyên bố bị cáo Long Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”, a) Về trách nhiệm hình sự:
Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; Điều 50; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Long Văn H từ 18 đến 24 tháng tù.
Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo b) Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 1, khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:
Một chiếc bao tải dứa màu trắng và mười con gà, gồm: Bốn con gà trống, sáu con gà mái, trong đó có 03 con đã chết, đã trả lại cho chủ sở hữu là bà Ma Thị Q.
Một xe mô tô Honda Dream, màu sơn nâu, biển kiểm soát 33M4-xxxx là tài sản chung phát sinh trong thời kỳ hôn nhân của bị cáo với bà Ma Thị B và bố mẹ bị cáo là ông Long Văn H, bà Cà Thị H. Tuy nhiên bị cáo không có đóng góp đối với chiếc xe và việc bị cáo sử dụng chiếc xe đi trộm cắp thì ông H, bà H, bà B không biết, nay ông H, bà H đề nghị trả chiếc xe cho bà B, do vậy cần trả lại chiếc xe cho bà B.
Đối với chiếc điện thoại di động mà Lý Văn G đã sử dụng vào việc trộm cắp tài sản, quá trình điều tra vụ án không thu giữ được, do vậy không đề cập xử lý.
c) Về trách nhiệm dân sự: Bị hại bà Ma Thị Q không yêu cầu bị cáo và Lý Văn G bồi thường nên không xem xét.
d) Án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016 ngày 30/12/2016 của UBTVQH. Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Tại phiên toà người bào chữa cho bị cáo nhận thấy việc xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” là đúng người, đúng tội. Tuy nhiên trong quá trình điều tra bị cáo thành khẩn khai báo, bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng đặc biệt khó khăn nhận thức về pháp luật còn hạn chế, bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, do vậy đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng 02 tình tiết giảm nhẹ tại điểm h, s khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự, bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào. Đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức hình phạt thấp nhất và miễn án phí cho bị cáo.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, bị hại, người bào chữa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án và căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Pác Nặm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Pác Nặm, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại, người bào chữa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Như vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo:
Tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người liên quan và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có cơ sở kết luận:
Khoảng 18 giờ ngày 26/8/2021, tại khu vực chăn nuôi của bà Ma Thị Q thuộc Thôn B, xã C, huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn, lợi dụng sơ hở trong việc quản lý tài sản, Long Văn H và Lý Văn G đã trộm cắp 10 con gà có trị giá 1.485.000đ. Mặc dù lần trộm cắp này dưới 2.000.000 đồng nhưng trước đó Long Văn H đã bị Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Kạn xử phạt 07 tháng tù về tội trộm cắp tài sản nhưng chưa được xóa án tích, do vậy lần trộm cắp này của Long Văn H đã đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản.
Hành vi của bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Pác Nặm truy tố về tội “trộm cắp tài sản” là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[3]. Xét tính chất nghiêm trọng, mức độ phạm tội của bị cáo thấy.
Mặc dù nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật và sẽ bị trừng trị, nhưng do muốn có tiền tiêu sài nên bị cáo đã bất chấp. Hành vi của bị cáo còn gây ảnh hưởng đến tình hình trật tự xã hội nói chung và huyện Pác Nặm nói riêng, do vậy cần phải có hình phạt xứng đáng với hành vi mà bị cáo đã gây ra.
Khi thực hiện hành vi bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai bị hại, người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015.
Điều 173 Bộ luật hình sự quy định:
1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này ......... chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
................................
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
[4].Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, năm 2007 bị Công an huyện Pác Nặm xử phạt vi phạm hành chính về hành vi gây rối trật tự công cộng. Năm 2009 đi cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm chữa bệnh - giáo dục - lao động xã hội tỉnh Bắc Kạn. Năm 2012 bị TAND huyện Pác Nặm xử phạt 24 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, đã được xóa án tích. Năm 2017 đi cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm chữa bệnh - giáo dục - lao động xã hội tỉnh Bắc Kạn. Ngày 13/6/2019 bị Công an xã X, huyện Pác Nặm xử phạt vi phạm hành chính về hành vi bạo lực gia đình.
Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải cịu tình tiết tăng nặng nào; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo; bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn do vậy bị cáo được hưởng hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.
Căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo, các quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo đã bị bị xét xử hai lần về tội trộm cắp tài sản nhưng không lấy đó làm bài học mà còn tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, do vậy cần phải áp dụng hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và đảm bảo tính giáo dục, phòng ngừa chung.
Về hình phạt bổ sung: Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, kết quả điều tra, xác minh cho thấy bị cáo là đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, không có nghề nghiệp ổn định, do vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[5]. Về vật chứng của vụ án: Vật chứng của vụ án gồm:
Một chiếc bao tải dứa màu trắng và mười con gà, gồm: Bốn con gà trống, sáu con gà mái, trong đó có 03 con đã chết, cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là bà Ma Thị Q là phù hợp.
Một xe mô tô Honda Dream, màu sơn nâu, biển kiểm soát 33M4-xxxx là tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của bị cáo với bà Ma Thị B và bố mẹ ruột bị cáo là bà Cà Thị H, ông Long Văn H, kết quả điều tra xác định bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy từ năm 2009 đã đi cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm chữa bệnh - giáo dục - lao động xã hội tỉnh Bắc Kạn, năm 2012 bị TAND huyện Pác Nặm xử phạt 24 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, năm 2017 lại đi cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm chữa bệnh - giáo dục - lao động xã hội tỉnh Bắc Kạn nên bị cáo không có đóng góp tiền của để mua chiếc xe này và bị cáo sử dụng chiếc xe để dùng vào việc trộm cắp tài sản thì bà H, ông H và bà B không biết, do vậy cần trả lại chiếc xe cho bà H, ông H và bà B là phù hợp. Tuy nhiên tại phiên tòa bà H, ông H có đơn đề nghị Hội đồng xét xử trả lại chiếc xe cho bà Ma Thị B, tại phiên tòa bà B đồng ý với đề nghị của bà H, ông H. Hội đồng xét xử xét thấy đề nghị của bà H, ông H là phù hợp, do vậy cần trả lại chiếc xe cho bà Ma Thị B.
Đối với chiếc điện thoại di động mà Lý Văn G đã sử dụng vào việc trộm cắp tài sản, quá trình điều tra vụ án không thu giữ được, do vậy không đề cập xử lý.
[6]. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại bà Ma Thị Q không yêu cầu bị cáo và Lý Văn G bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[7]. Đánh giá về quan điểm truy tố, đề nghị của Viện kiểm sát: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn tại phiên tòa giữ nguyên Quyết định truy tố như nội dung bản Cáo trạng, quan điểm truy tố của Viện kiểm sát là có căn cứ. Mức hình phạt của Viện kiểm sát đề nghị tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra.
Đánh giá việc người bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng 02 tình tiết giảm nhẹ tại điểm h, s khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự, cho bị cáo được hưởng mức hình phạt nhẹ nhất và miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo. Hội đồng xét xử nhận định đề nghị của người bào chữa là có cơ sở, do vậy được Hội đồng xét xử xem xét.
[8] Xem xét, đánh giá hành vi của những người liên quan.
Trong vụ án còn có Lý Văn G là người cùng bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, tuy nhiên đánh giá tính chất mức độ của hành vi, cũng như hậu quả và nhân thân của Lý Văn G thấy chưa đến mức phải chịu trách nhiệm hình sự, do vậy Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Pác Nặm đã chuyển Công an huyện Pác Nặm để xử lý vi phạm hành chính.
Đối với lời khai của bị cáo Long Văn H về việc, ngày 26/8/2021 khi đi đến xã C, huyện Pác Nặm, Lý Văn G có nói với H về việc dừng xe để sử dụng ma túy, tuy nhiên H không nhìn thấy G có ma túy và cũng không có việc cùng nhau sử dụng trái phép chất ma túy, do vậy không đề cập xử lý.
[9] Về án phí: Bị cáo là đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và bị cáo có đơn xin miễn án phí. Do vậy cần miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
[1]. Tuyên bố bị cáo Long Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”
[2]. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; Điều 38; Điều 50, điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.
[3]. Xử phạt bị cáo Long Văn H 18 (Mười tám) tháng tù.
Thời hạn tù tính từ ngày 09 tháng 6 năm 2022
[4]. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại bà Ma Thị Q không yêu cầu bị cáo và Lý Văn G bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5]. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 1, khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:
Trả lại 01 chiếc xe mô tô Honda Dream, màu sơn nâu, biển kiểm soát 33M4- xxxx cho bà Ma Thị B, sinh năm 19xx trú tại Thôn T, xã X, huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn.
(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/4/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Pác Nặm và Chi cục thi hành án dân sự huyện Pác Nặm).
[6]. Về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
[7]. Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa, vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 12/2022/HS-ST
Số hiệu: | 12/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Pác Nặm - Bắc Kạn |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/06/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về