Bản án về tội trộm cắp tài sản số 12/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH BẢO, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 12/2022/HS-ST NGÀY 11/03/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 11-3-2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 10/2022/TLST-HS ngày 28-01-2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2022/QĐXXST-HS ngày 10-02-2022 và Quyết định hoãn phiên toà số 10/2022/QĐST-HS ngày 01-3- 2022, đối với bị cáo:

Vũ Duy L, sinh năm 1997 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn XH, xã HT, huyện VB, thành phố Hải Phòng; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; con ông Vũ Duy L và bà Nguyễn Thị H; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị áp tạm giữ từ ngày 19-10-2021 đến ngày 26-10-2021 chuyển tạm giam theo Lệnh tạm giam số 98 ngày 26-10-2021 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện An Dương, thành phố Hải Phòng, có mặt.

- Bị hại: Chị Phạm Thị Ánh Ng, sinh năm 1991; nơi cư trú: Thôn 6, xã GB, huyện VB, thành phố Hải Phòng, vắng mặt;

- Người làm chứng: Ông Nguyễn Văn Q, anh Phạm Văn Đ, đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 19-10-2021, Vũ Duy L bị bắt quả tang về hành vi trộm cắp tài sản tại thôn Ngoài Lương Quy, xã Lê Lợi, huyện An Dương, Hải Phòng và khai ngày 02- 10-2021, L trộm cắp 01 xe môtô nhãn hiệu Airblade, màu đỏ - đen tại trường mầm non xã GB, huyện VB, thành phố Hải Phòng. Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện An Dương, Hải Phòng có công văn số 844/CV-ĐTTH và chuyển tài liệu đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vĩnh Bảo giải quyết theo thẩm quyền.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vĩnh Bảo, Vũ Duy L khai nhận: Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 02-10-2021, L điều khiển xe môtô nhãn hiệu Wave (chưa xác định được biển kiểm soát) đến nhà Vũ Xuân H1, sinh năm 1991 ở thôn Phương Tường, xã HT, huyện VB chơi. Tại đây L rủ H1 đi trộm cắp tài sản và thống nhất nếu trộm cắp được xe môtô sẽ đem về cất giấu ở bụi tre cánh đồng thôn PhTr, xã HT, huyện VB, khi bán được xe hoặc cho chuộc lại, tiền thu được sẽ chia đôi. H1 đồng ý và điều khiển xe môtô nhãn hiệu Wave chở L cầm theo 01 vam phá khóa bằng kim loại, hình chữ L. Khi đi đến trường mầm non xã GB, huyện VB, L bảo H1 đứng ngoài cảnh giới còn L đi bộ vào sân trường. L thấy 01 xe môtô nhãn hiệu Airblade biển kiểm soát 15K1-151.90 của chị Ng dựng ở gần cổng trường, nên dùng vam phá khóa xe rồi lên xe nổ máy điều khiển xe đi đến cánh đồng thôn Phương Trì, xã HT, huyện VB cất giấu. Tối cùng ngày, H1 gọi điện bảo L mang xe môtô trộm cắp được về sân vận động đối diện Ủy ban nhân dân xã Trung Lập, huyện Vĩnh Bảo để cho chị Ng chuộc lại xe. L đi xe môtô biển kiểm soát 15K1-151.90 dựng ở sân vận động rồi đến nhà nghỉ Ngọc Hà ở xã Hưng Nhân, huyện Vĩnh Bảo ngủ. Sau đó được H1 gọi điện thông báo cho chuộc xe được 6.000.000 đồng, mỗi người được 3.000.000 đồng. H1 đã đưa cho L số tiền 3.000.000 đồng.

Quá trình điều tra chị Phạm Thị Ánh Ng khai báo: Khoảng 16 giờ 30 phút, ngày 02-10-2021, chị điều khiển xe môtô biển kiểm soát 15K1-151.90 đi từ nhà đến trường mầm non xã Giang Biên thuộc xã GB, huyện VB, Hải Phòng để đón con, chị khóa và dựng xe trong khuôn viên trường, khoảng 10 phút sau chị phát hiện xe môtô bị kẻ gian trộm cắp. Tối cùng ngày, chị nhận được cuộc điện thoại của một người đàn ông (không rõ lai lịch, địa chỉ) yêu cầu chuộc xe môtô với giá 8.000.000 đồng, chị cùng em họ là anh Phạm Văn Đại, sinh năm 1993 ở thôn Thiết Tranh, xã Vĩnh An, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng đến sân vận động đối diện Ủy ban nhân dân xã Trung Lập, huyện Vĩnh Bảo gặp người đàn ông lạ mặt (không rõ lai lịch, địa chỉ) và chuộc lại xe môtô biển kiểm soát 15K1-151.90, chị Ng đã trình báo vụ việc đến Công an xã Giang Biên, chuyển Công an huyện Vĩnh Bảo.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 47/HĐĐG ngày 20-10-2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng huyện Vĩnh Bảo đã kết luận: “Giá trị của 01 xe môtô biển kiểm soát 15K1-151.90, nhãn hiệu Honda Airblade màu sơn đỏ đen trắng, số máy JF46E4222190, số khung JF4607DY586107, đã qua sử dụng, tại thời điểm cần định giá là 20.000.000 (Hai mươi triệu) đồng; Giá trị thiệt hại (chi phí sửa chữa, thay mới bao gồm cả tiền công sửa chữa, lắp đặt) của 01 ổ khóa xe môtô biển kiểm soát 15K1-151.90, nhãn hiệu Honda Airblade là 1.500.000 (Một triệu năm trăm nghìn) đồng” .

Về dân sự: Chị Phạm Thị Ánh Ng đã nhận lại xe môtô biển kiểm soát 15K1-151.90, đối với 8.000.000 đồng tiền chuộc xe và 1.500.000 đồng thay mới ổ khóa xe môtô, chị Ng không yêu cầu bồi thường.

Về vật chứng thu được: Cơ quan Cảnh sát điều tra đã thu giữ 01 áo phông ngắn tay màu đen của Vũ Duy L, chuyển Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Bảo bảo quản trong giai đoạn xét xử và thi hành án.

Tại phiên tòa, bị cáo Vũ Duy L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Bảo kết thúc phần tranh luận đã khẳng định: Việc truy tố bị cáo Vũ Duy L phạm tội “Trộm cắp tài sản” là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Căn cứ tính chất hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo. Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Vũ Duy L từ 12 đến 15 tháng tù. Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không có yêu cầu gì, nên không đặt ra để giải quyết. Về xử lý vật chứng: Trả lại cho bị cáo 01 áo phông ngắn tay màu đen; truy thu để sung công quỹ Nhà nước số tiền 3.000.000 đồng mà L được hưởng lợi từ số tiền chuộc xe của bị hại. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đã suy nghĩ và thấy rằng hành vi của mình là sai trái và vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, để bị cáo được sớm trở về với gia đình và trở thành người có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hay kH1 nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Vũ Duy L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa là rõ ràng, phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, người làm chứng, vật chứng thu được, kết luận định giá tài sản và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ kết luận: Vào khoảng 16 giờ 30 phút ngày 02-10-2021 tại trường mầm non xã GB, huyện VB, thành phó Hải Phòng Vũ Duy L đã có hành vi lén lút chiếm đoạt của chị Phạm Thị Ánh Ng 01 xe môtô biển kiểm soát 15K1-151.90, nhãn hiệu Honda Airblade màu sơn đỏ đen trắng, số máy JF46E4222190, số khung JF4607DY586107, đã qua sử dụng, trị giá theo kết luận định giá tài sản là 20.000.000 (Hai mươi triệu đồng). Do đó, hành vi của Vũ Duy L đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” với tình tiết định khung hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

[3] Tính chất vụ án tuy ít nghiêm trọng nhưng hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi của bị cáo không những xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác mà còn gây mất trật tự trị an xã hội. Vì vậy, cần xét xử bằng pháp luật hình sự mới có đủ tác dụng giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa tội phạm.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiất tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tiền án tiền sự, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo trong suốt quá trình điều tra, truy tố và xét xử, tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện An Dương, thành phố Hải Phòng bị cáo đã đầu thú về hành vi phạm tội của mình tại xã Giang Biên huyện Vĩnh Bảo. Do đó, bị cáo L được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[6] Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy rằng lần phạm tội này lần đầu nhưng sau khi thực hiện hành vi phạm tội này ngày 19-10-2021 bị cáo còn có hành vi trộm cắp tại huyện An Dương, thành phố Hải Phòng đến ngày 18-02-2022 bị Toà án nhân dân huyện An Dương xử phạt 18 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (bản án này chưa có hiệu lực pháp luật). Do đó, Hội đồng xét xử đánh giá bị cáo là người có nhân thân xấu và cần có hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục, răn đe phòng ngừa tội phạm.

[7] Về hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy: Bị cáo lao động tự do, thu nhập không ổn định và không có tài sản gì có giá trị. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo như đề nghị của Kiểm sát viên là phù hợp.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã chuộc lại được tài sản đã mất và không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[9] Đối với số tiền 3.000.000 đồng mà bị cáo L được hưởng lợi từ việc chị Ng chuộc lại xe, nay chị Ng không có yêu cầu gì. Do đó, cần truy thu số tiền 3.000.000 đồng này từ bị cáo để sung công quỹ Nhà nước.

[10] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 áo phông màu đen ngắn tay thu giữ của bị cáo không liên quan gì đến hành vi phạm tội của bị cáo nên cần trả lại cho bị cáo;

[11] Đối với Vũ Xuân H1, qua trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vĩnh Bảo đã triệu tập, cho nhận dạng và xác minh nhưng H1 không có mặt tại địa phương, không lấy được lời khai của H1. Mặt khác, ngoài lời khai của L thì không có tài liệu, chứng cứ nào khác chứng minh việc H1 có đồng phạm về tội Trộm cắp tài sản với bị cáo hay không nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Vĩnh Bảo chưa xử lý về hành vi Trộm cắp tài sản của H1 là đúng quy định của pháp luật.

[12] Đối với người đàn ông đã cho chị Ng chuộc lại xe môtô biển kiểm soát 15K1-151.90, hiện chưa làm rõ được lai lịch, địa chỉ, Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau là phù hợp.

[13] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Vũ Duy L 12 (Mười hai) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày đi chấp hành án.

2. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Trả lại cho bị cáo 01 áo phông ngắn tay màu đen; truy thu số tiền 3.000.000 (Ba triệu) đồng đối với bị cáo L để sung công quỹ Nhà nước. Toàn bộ vật chứng có đặc điểm như biên bản thu giữ đã được bàn giao tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Bảo.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và khoản 1 Điều 6; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30- 12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Vũ Duy L phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 9 của Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

164
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 12/2022/HS-ST

Số hiệu:12/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Bảo - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về