Bản án về tội trộm cắp tài sản số 116/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 116/2021/HS-ST NGÀY 01/07/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 01 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 118/2021/TLST- HS ngày 09 tháng 6 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 478/2021/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 6 năm 2021, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn T H (tên gọi khác: C), sinh năm: 1994 Nơi cư trú: Khóm 7, thị trấn N, huyện N, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn T P (chết) và bà: Nguyễn Thị N M (chết);

Tiền án: 02 lần, cụ thể:

- Tại bản án số 22/2014/HS-ST ngày 27/6/2014, bị Tòa án nhân dân huyện Năm Căn xử phạt 01 năm tù, về tội trộm cắp tài sản. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 24/3/2015.

- Tại bản án số 06/2016/HS-ST ngày 01/02/2016, bị Tòa án nhân dân huyện Năm Căn xử phạt 02 năm tù về tội trộm cắp tài sản, bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 09/9/2017, chưa thi hành về bồi thường trách nhiệm dân sự và án phí.

Tiền sự: 01 lần. Tại Quyết định số 26/QĐ-TA ngày 24/12/2020, bị Tòa án nhân dân huyện Năm Căn ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 24 tháng.

Bị cáo đang chấp hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma túy tỉnh Cà Mau.

Bị hại:

- Anh Mai Tuấn L, sinh năm 1997 (Vắng mặt) Địa chỉ: Số 85, L, khóm 7, phường 6, thành phố C, tỉnh Cà Mau.

- Anh Trần Quốc K, sinh năm 1984 (Vắng mặt) Địa chỉ: Số 306, L, khóm 2, phường 6, thành phố C, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong khoảng thời gian từ ngày 01/02/2021 đến ngày 03/02/2021, Nguyễn T H đã thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố C, cụ thể như sau:

- Vụ thứ nhất: Vào khoảng 11 giờ ngày 01/02/2021, H đi bộ từ hướng Bệnh viện sản nhi Cà Mau về hướng ngã 3 nhà thờ thuộc phường 6, thành phố C để tìm tài sản lấy trộm. Khi H đi đến tiệm điện thoại di động Q Iphone thuộc khóm 1, phường 6, thành phố C thì phát hiện anh Mai Tuấn L đang ngồi sửa chữa điện thoại quay mặt vào bên trong nên H đi đến tủ kính trưng bày điện thoại, lấy trộm một điện thoại di động hiệu OPPO A1K màu đỏ và một điện thoại di động hiệu Realme 6I màu trắng của anh L. Lấy trộm xong hai điện thoại di động thì H đi đến thị trấn C, đến tiệm điện thoại không biết tên để bán 02 điện thoại trộm được với giá 2.000.000 đồng.

- Vụ thứ hai: Vào khoảng 11 giờ ngày 03/02/2021, H đi bộ từ hướng Bệnh viện sản nhi Cà Mau về hướng ngã 3 nhà thờ thuộc phường 6, thành phố C để tìm tài sản lấy trộm. Khi H đi đến tiệm điện thoại di động Quốc K thuộc khóm 2, phường 6, thành phố C thì phát hiện anh Trần Quốc K đang ngồi sửa chữa điện thoại quay mặt vào bên trong nên H đi đến tủ kính trưng bày điện thoại, lấy trộm một điện thoại di động hiệu OPPO F1S màu vàng của anh K. Lấy trộm xong điện thoại, H đi đến Bến xe C tìm chỗ tiêu thụ thì bị Công an phường 6, thành phố Cà Mau mời làm việc.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 điện thoại di động hiệu Mobell màu vàng, 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu vàng, 01 điện thoại di động hiệu SamSung màu đen và tiền Việt nam 3.655.000 đồng.

Tại kết luận định giá số 24/KL-HĐĐGTS ngày 31 tháng 3 năm 2021 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố Tụng hình sự kết luận: Tính vào thời điểm tháng 02 năm 2021:

- 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO A1K, màu đỏ, đã qua sử dụng có giá trị là 1.333.000 đồng.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Realme 6I, màu trắng, đã qua sử dụng có giá trị là 3.167.000 đồng.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO F1S, màu vàng, đã qua sử dụng có giá trị là 1.400.000 đồng.

Tại bản Cáo trạng số: 118/CT-VKS ngày 08 tháng 6 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau truy tố bị cáo Nguyễn T H về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như Cáo trạng đã nêu và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về hình sự: Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51;

điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn T H từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo bồi thường cho bị hại Mai T L số tiền 4.500.000 đồng. Đối với bị hại Trần Quốc K không yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự nên không đặt ra xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Đối với bị hại Mai Tuấn L, Nguyễn Quốc K vắng mặt tại phiên tòa, xét thấy quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã tiến hành lấy lời khai của các bị hại và có nêu ý kiến về trách nhiệm bồi thường nên việc vắng mặt của các bị hại không làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Do đó, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định pháp luật.

[2] Về tội danh: Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn T H tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại và các chứng cứ có tại hồ sơ vụ án. Từ đó, có đủ cơ sở để kết luận: Trong khoảng thời gian từ ngày 01/02/2021 đến ngày 03/02/2021, Nguyễn T H đã thực hiện hai vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Cà Mau, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Vào khoảng 11 giờ ngày 01/02/2021 tại khóm 1, phường 6, thành phố C, tỉnh Cà Mau, Nguyễn T H đã lén lút lấy trộm một điện thoại di động hiệu OPPO A1K màu đỏ và một điện thoại di động hiệu Realme màu trắng của anh Mai Tuấn L nhằm mục đích bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Giá trị tài sản của anh L bị chiếm đoạt là 4.500.000 đồng.

Vụ thứ hai: Vào khoảng 11 giờ ngày 03/02/2021 tại khóm 2, phường 6, thành phố C, tỉnh Cà Mau, Nguyễn T H đã lén lút lấy trộm một điện thoại di động hiệu OPPO F1S màu vàng của anh Trần Quốc K nhằm mục đích bán lấy tiền tiêu xài cá nhân thì bị phát hiện. Giá trị tài sản của anh K bị chiếm đoạt là 1.400.000 đồng.

Trước đó, bị cáo H có 02 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”, đã thuộc trường hợp tái phạm chưa được xóa án tích mà còn vi phạm nên lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp định khung hình phạt là tái phạm nguy hiểm.

Khoản 1 và điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

….

2. Phạm tội một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

….

g) Tái phạm nguy hiểm”.

Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau truy tố bị cáo Nguyễn T H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật, đúng với hành vi phạm tội của bị cáo.

[3] Về trách nhiệm hình sự: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tài sản thuộc sở hữu của người khác một cách trái pháp luật, ảnh hưởng đến tình hình trật tự ở địa phương. Bị cáo là người đã trưởng thành, nhận thức được hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vì bản chất tham lam, lười lao động, xem thường pháp luật, bị cáo vẫn thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Bản thân bị cáo đã nhiều lần bị Tòa án xử phạt tù về tội Trộm cắp tài sản. Tuy nhiên, sau khi chấp hành xong hình phạt tù, bị cáo không biết sửa chữa sai lầm mà tiếp tục đi vào con đường phạm tội. Trong vụ án này bị cáo phạm tội với tình tiết định khung hình phạt là tái phạm nguy hiểm nên cần phải áp dụng một mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ và hậu quả do hành vi của bị cáo gây ra và cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, góp phần đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình hiện nay.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong vụ án này, bị cáo H 02 lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nên thuộc trường hợp tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội 02 lần trở lên theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Bị cáo có nhân thân xấu. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải, tài sản gây thiệt hại có giá trị không lớn. Do đó, bị cáo H được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về xử lý vật chứng gồm:

- 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu vàng là tài sản H đã trộm cắp của anh Trần Quốc K. Ngày 10/5/2021 Cơ quan điều tra đã trả lại tài sản này cho anh K là đúng quy định pháp luật.

- Tiền Việt Nam 2.000.000 đồng, do bị cáo H bán 02 điện thoại trộm của anh Mai Tuấn L mà có được, là tiền thu lợi bất chính nên tịch thu sung quỹ nhà nước.

- Tiền Việt Nam còn lại 1.655.000 đồng cùng với 01 điện thoại di động hiệu Mobell màu vàng và 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu đen. Hoàng khai nhận: Vào khoảng 01 giờ ngày 03/02/2021 H đã lấy trộm số tiền 1.655.000 đồng cùng với 01 điện thoại di động hiệu Mobell màu vàng của một người đàn ông ở Công viên H tại phường 7, thành phố C, tỉnh Cà Mau. Còn điện thoại di động hiệu Samsung màu đen là do H lấy trộm vào khoảng gần tết nguyên đán năm 2020 của một người ở thị trấn C, huyện C, tỉnh Cà Mau. Qua xác minh vào thời điểm nêu trên tại địa bàn phường 7, thành phố C và địa bàn thị trấn C, huyện C N chưa có ai trình báo mất trộm tài sản như lời khai của H. Do đó, giao Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ nếu có căn cứ xử lý sau.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị chiếm đoạt của anh Mai Tuấn L không thu hồi được, có giá trị 4.500.000 đồng, anh L yêu cầu bị cáo bồi thường. Do đó, cần buộc bị cáo H phải có trách nhiệm bồi thường cho anh L số tiền 4.500.000 đồng. Đối với tài sản bị chiếm đoạt của anh Trần Quốc K đã được thu hồi và trả lại cho anh K, không yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự nên không đặt ra xem xét.

[7] Bị cáo phạm tội bị xét xử nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 589 Bộ luật dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn T H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về trách nhiệm hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn T H 02 (Hai) năm 09 (Chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày chấp hành án.

3. Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Nguyễn T H bồi thường thiệt hại cho anh Mai Tuấn L số tiền 4.500.000 đồng (Bốn triệu năm trăm nghìn đồng).

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, bị cáo không tự nguyện thi hành xong số tiền bồi thường, hàng tháng phải chịu lãi suất chậm thi hành theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.

4. Về xử lý vật chứng: Tịch thu sung quỹ nhà nước tiền Việt Nam 2.000.000 đồng (Theo Giấy nộp tiền vào tài khoản tại kho bạc nhà nước - Cà Mau lập ngày 25/4/2021).

5. Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn T H phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử sơ thẩm, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết bản án theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 116/2021/HS-ST

Số hiệu:116/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về