Bản án về tội trộm cắp tài sản số 11/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ GIÁO, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 11/2022/HS-ST NGÀY 31/03/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 31 tháng 3 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 03/2022/TLST-HS ngày 17 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2022/QĐXXST- HS ngày 02 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Thạch Trung H, sinh ngày 19/8/1976 tại Đồng Nai. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp T, xã V, huyện P, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Thợ hồ; trình độ học vấn: 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Thạch Kim S, sinh năm 1955 và bà Hà Thị C, sinh năm 1965; bị cáo có vợ tên Trần Thị Châu M, sinh năm 1986 và 03 người con; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 25/10/2021, bị Công an xã Vĩnh Hòa, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 27/QĐ-XPVPHC về hành vi “Say rượu, bia gây mất an ninh trật tự công cộng” số tiền phạt 750.000đ; ngày 28/10/2021, bị Công an xã Vĩnh Hòa, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 28/QĐ-XPVPHC về hành vi “Say rượu, bia gây mất an ninh trật tự công cộng” số tiền phạt là 1.000.000đ, chưa chấp hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/11/2021 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên toà.

- Bị hại: Ông Nguyễn Hoàng D, sinh năm 1996; địa chỉ: Khu phố x, thị trấn A, huyện P, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Đặng Mã Bội D1, sinh năm 2003; địa chỉ: Khóm z, phường PH, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ ngày 13/11/2021, bị cáo H nhờ bạn của bị cáo là Lâm Văn K (tên thường gọi là Tuấn) chở đi mua thuốc lá, trên đường đi H nhờ K chở H đến quán cà phê PT thuộc khu phố y, thị trấn A, huyện P, tỉnh Bình Dương để uống cà phê. H vào quán cà phê gọi 01 chai nước uống, trong lúc ngồi uống nước, H nhìn thấy 01 xe mô tô Honda Vision màu trắng biển số 61F1-268.xx đang để gần vị trí H uống nước, có chìa khóa xe trên cổ xe nên H nảy sinh ý định trộm cắp. H quan sát xung quanh thấy không có ai để ý nên H lén lút lên xe nổ máy chạy về hướng Ấp T, xã V, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương. Lúc này, bà Đặng Mã Bội D1 là chủ quán cà phê PT phát hiện xe mô tô bị mất nên gọi điện cho ông Nguyễn Hoàng D để báo cho ông D biết vì chiếc xe mô tô Honda Vision màu trắng biển số 61F1-268.xx là của ông D cho bà D1 mượn làm phương tiện đi lại. Ông D liền kiểm tra định vị xe mô tô của mình thì phát hiện xe mô tô đang đi về Ấp T, xã V, huyện Phú Giáo, ông D trình báo công an thị trấn Phước Vĩnh. Công an thị trấn Phước Vĩnh kết hợp cùng Công an xã Vĩnh Hòa bắt quả tang H và thu giữ 01 xe mô tô Honda Vision màu trắng biển số 61F1-268.xx , số máy: JF58E0437996, số khung: 5809EY552237 do bị cáo H để ở nhà bà Phạm Thị Bích T thuộc Ấp T, xã V, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương.

Quá trình điều tra, bị cáo H đã thừa nhận hành vi phạm tội như trên. Cơ quan điều tra đã thu giữ: 01 áo thun cổ màu trắng, 01 quần kaki lửng màu xám, 01 nón kết (nón lưỡi trai) màu đen; 01 chứng minh nhân dân số 281068024 của bị cáo H.

Bản kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Phú Giáo ngày 16/11/2021 kết luận: 01 xe mô tô Honda Vision màu trắng biển số 61F1-268.xx , số máy: JF58E0437996, số khung: 5809EY552237 có giá trị là 17.000.000đ (Mười bảy triệu đồng).

Tại Cáo trạng số 06/CT-VKSPG ngày 17 tháng 01 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Thạch Trung H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương thực hành quyền công tố vẫn nguyên quyết định truy tố của Cáo trạng và nêu quan điểm: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Đồng thời, đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) tuyên bố bị cáo Thạch Trung H phạm tội “Trộm cắp tài sản” và áp dụng khoản 1 Điều 173, các điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 đề nghị xử phạt bị cáo Thạch Trung H mức án từ 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại ông Nguyễn Hoàng D đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo Thạch Trung H bồi thường gì về dân sự nên Viện kiểm sát không đặt ra xem xét.

Về xử lý vật chứng của vụ án: Đề nghị HĐXX trả lại cho bị cáo H 01 chứng minh nhân dân số 281068024 mang tên Thạch Trung H.

Bị cáo thống nhất với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo còn có con nhỏ mong HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bị cáo nói lời nói sau cùng, xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến, khiếu nại về hành vi quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Về sự vắng mặt của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã có lời khai trong quá trình điều tra, việc vắng mặt không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án nên căn cứ Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự, HĐXX vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Thạch Trung H đã thừa nhận: Ngày 13/11/2021, bị cáo đã có hành vi lén lút trộm 01 xe mô tô Honda Vision màu trắng biển số 61F1-268.xx, số máy: JF58E0437996, số khung: 5809EY552237 của ông Nguyễn Hoàng D tại quán cà phê Phương Trang thuộc khu phố 1, thị trấn A, huyện P, tỉnh Bình Dương thì bị phát hiện bắt quả tang.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Về nhận thức, bị cáo biết việc lén lút trộm cắp tài sản thuộc sở hữu của người khác là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Bị cáo đã đủ tuổi, đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo đã chiếm đoạt tài sản của bị hại có giá trị là 17.000.000đ (Mười bảy triệu đồng). Do đó, hành vi của bị cáo Thạch Trung H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[4] Cáo trạng số 06/CT-VKSPG ngày 17 tháng 01 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Thạch Trung H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[5] Tội phạm do bị cáo thực hiện đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ, gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo mức án tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo để răn đe giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt HĐXX cũng xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân của bị cáo để quyết định một mức hình phạt phù hợp. Về nhân thân, bị cáo đã 02 lần bị xử phạt hành chính về hành vi say rượu, bia gây mất an ninh trật tự công cộng, bị cáo chưa chấp hành đóng tiền phạt.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, tài sản đã thu hồi trả lại cho bị hại, bị hại có đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để áp dụng khi quyết định hình phạt đối với bị cáo, để bị cáo thấy được chính sách khoan hồng của pháp luật mà an tâm cải tạo thành công dân có ích cho xã hội.

[6] Tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương về tội danh và hình phạt đối với bị cáo là phù hợp nên HĐXX chấp nhận.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại ông Nguyễn Hoàng D đã nhận lại xe, không yêu cầu bồi thường gì nên HĐXX không đặt ra xem xét. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Đặng Mã Bội D1 không bị mất tài sản gì khi bị cáo trộm chiếc xe mô tô, bà D1 không yêu cầu gì nên HĐXX không đặt ra xem xét.

[8] Về xử lý vật chứng của vụ án:

Đối với 01 xe mô tô Honda Vision màu trắng biển số 61F1-268.xx , số máy: JF58E0437996, số khung: 5809EY552237 là của ông Nguyễn Hoàng D cho bà Đặng Mã Bội D1 mượn làm phương tiện đi lại. Ngày 13/11/2021, bà D1 để xe tại quán cà phê của bà thì bị mất trộm. Cơ quan điều tra đã thu hồi được xe và trả lại cho chủ sở hữu là ông Nguyễn Hoàng D, D đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu bồi thường nên HĐXX không đặt ra xem xét.

Đối với 01 áo thun cổ màu trắng, 01 quần kaki lửng màu xám, 01 nón kết (nón lưỡi trai) màu đen của bị cáo H, không liên quan đến hành vi phạm tội, Cơ quan điều tra đã trả lại cho bị cáo H, bị cáo đã nhận lại tài sản, không có ý kiến gì nên HĐXX không đặt ra xem xét.

Đối với 01 chứng minh nhân dân số 281068024 của bị cáo H là giấy tờ cá nhân của bị cáo H nên HĐXX xem xét trả lại cho bị cáo H.

[9] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106, Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Thạch Trung H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Thạch Trung H 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 13/11/2021.

3. Về trách nhiệm dân sự: Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

4. Về xử lý vật chứng: Trả lại cho bị cáo Thạch Trung H 01 (một) chứng minh nhân dân số 281068024 mang tên Thạch Trung H.

Theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 18/01/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương.

5. Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Thạch Trung H phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quanvắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 11/2022/HS-ST

Số hiệu:11/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Giáo - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về