Bản án về tội trộm cắp tài sản số 11/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LIÊN CHIỂU, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 11/2022/HS-ST NGÀY 11/02/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 11 tháng 02 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, TP. Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 06/2022/TLST-HS ngày 13 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2022/QĐXXST- HS ngày 28 tháng 01 năm 2022 đối với bị cáo:

Huỳnh Đức R. Giới tính: Nam. Tên gọi khác: Không.

Sinh ngày: 01/9/1993 tại: Bà Rịa Vũng Tàu.

Quc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không.

Nơi cư trú và đăng ký HKTT: Xã B, huyện X, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. Nghề nhiệp: Nhân viên bán hàng. Trình độ học vấn: 08/12.

Cha: Huỳnh Đức B (SN 1968). Mẹ: Lê Thị T (1968) Gia đình có 02 anh em, R là con đầu. Vợ: Huỳnh Thị Kim N (SN 1999).

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 05/11/2021, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an quận Liên Chiểu (Có mặt).

- Người bị hại: Chị Trần Thị Thu A – Sinh năm: 1988; Nơi cư trú: Tổ 10, phường H, quận L, Tp Đà Nẵng, vắng mặt, không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 02h00’ ngày 12/9/2021, Huỳnh Đức R đang chơi game trên mạng internet ở nhà trọ của mình thuộc tổ 10, P. H, Q. L, TP. Đà Nẵng thì hết tiền để nạp chơi game nên R nảy sinh ý định đi trộm cắp tài sản để lấy tiền chơi game. Thực hiện ý định của mình, R lấy một tuốc-nơ-vit có sẵn trong nhà trọ rồi đi bộ sang cửa hàng tạp hóa của chị Trần Thị Thu A ở gần phòng trọ của R, thấy quán tạp hóa không có ai trông coi nên R đã dùng tuốc-nơ-vít mở các con vít trên tấm tôn ở khung cữa rồi bẻ tôn chui vào trong quán. Khi vào trong quán R đã lấy trộm 57 thẻ card điện thoại của các nhà mạng Mobiphone, Vinaphone, Viettel gồm các mệnh giá: 10.000 đồng, 20.000 đồng, 50.000 đồng và 100.000 đồng để trong hộp nhựa trên bàn trong quán. Sau khi lấy trộm các thẻ card điện thoại này, R chui ra ngoài qua lỗ cữa đã vào trước đó rồi đem toàn bộ card điện thoại về phòng trọ của mình cào và nạp các mã số thẻ card điện thoại vào để chơi game trên mạng internet (R lên mạng internet tạo một tài khoản tên là “Hoanggut 1998” để chơi game 3D kiếm hiệp nhưng không biết rõ trò chơi này do ai quản lý) với tổng số tiền 3.360.000 đồng. Sau đó, R vứt các thẻ Card điện thoại vào thùng rác và xung quanh nhà trọ.

Sáng cùng ngày, chị A đến mở quán thì phát hiện bị mất tài sản nên trình báo sự việc lên Công an phường Hòa Hiệp Nam. Qua kiểm tra, xác minh, Công an phường Hòa Hiệp Nam nghi ngờ Huỳnh Đức R đã lấy trộm nên triệu tập lên làm việc. Tại Cơ quan Công an R khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp của mình như nói trên.

Theo Bản kết luận định giá số: 64/KL-HĐĐG ngày 13/10/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, kết luận: Tổng giá trị của 57 card điện thoại các loại nêu trên là: 3.660.000 đồng (Ba triệu sáu trăm sáu mươi sáu nghìn đồng) * Tang vật tạm giữ:

- 01 tuốc-nơ-vit dài 30cm, cán bằng cao su màu đỏ đen.

- 06 thẻ card điện thoại, nhà mạng Vinaphone, mệnh giá 50.000 đồng; 07 thẻ card điện thoại, nhà mạng Mobifone, mệnh giá 50.000 đồng; 06 thẻ card điện thoại, nhà mạng Viettel, mệnh giá 50.000 đồng; 08 thẻ card điện thoại, nhà mạng Viettel, mệnh giá 20.000 đồng. (Các thẻ card điện thoại này đã sử dụng).

* Về xử lý vật chứng:

Chuyển toàn bộ các tang vật tạm giữ sang Chi cục Thi hành án dân sự quận Liên Chiểu bảo quản chờ xử lý.

* Về dân sự: Đại diện gia đình bị cáo đã bồi thường cho người bị hại là chị Trần Thị Thu A số tiền 3.700.000 đồng và chị A đã có đơn xin miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo và không có yêu cầu gì thêm về dân sự.

Ti Bản cáo trạng số 10/CT-VKS ngày 11 tháng 01 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng đã truy tố bị cáo Huỳnh Đức R về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Ti phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Huỳnh Đức R như Bản cáo trạng, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b,h,i,s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự đề nghị xử phạt bị cáo Huỳnh Đức R mức án từ 06 tháng đến 09 tháng tù.

Ti phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt tạo điều kiện cho bị cáo có cơ hội để sửa chữa sai lầm của mình và hứa sẽ tiếp tục cải tạo và thành người có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà, bị cáo Huỳnh Đức R đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với nội dung bản cáo trạng và tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở để xác định:

Do cần tiền để nạp vào thẻ chơi game, khoảng 02h00 ngày 12/9/2021, bị cáo R đã lén lút, đột nhập vào quán tạp hóa của chị Trần Thị Thu A thuộc tổ 10, P. H, Q. L, TP. Đà Nẵng Huỳnh Đức R chiếm đoạt 57 thẻ card điện thoại của các nhà mạng Mobiphone, Vinaphone, Viettel gồm các mệnh giá 10.000 đồng, 20.000 đồng, 50.000 đồng và 100.000 đồng với tổng giá trị tài sản là: 3.660.000 đồng (Ba triệu sáu trăm sáu mươi sáu nghìn đồng).

Hành vi của bị cáo Huỳnh Đức R đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản", tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật..

[3] Xét hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm, thể hiện ý thức coi thường pháp luật nên cần phải xử lý nghiêm.

[3] Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã hành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; Bị cáo tác động với gia đình để bồi thường toàn bộ thiệt hại cho người bị hại và được người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bị cáo lần đầu phạm tội, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng và bị cáo gây thiệt hại không lớn. Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b,h,i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[4] Xét mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu đề nghị là phù hợp với nhân thân xấu, tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra. Do vậy, Hội đồng xét xử thấy cần phải cách ly ra ngoài xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại không yêu cầu gì thêm nên HĐXX không xem xét.

[6] Về xử lý vật chứng:

- 01 tuốc-nơ-vit dài 30cm, cán bằng cao su màu đỏ đen.

- 06 thẻ card điện thoại, nhà mạng Vinaphone, mệnh giá 50.000 đồng; 07 thẻ card điện thoại, nhà mạng Mobifone, mệnh giá 50.000 đồng; 06 thẻ card điện thoại, nhà mạng Viettel, mệnh giá 50.000 đồng; 08 thẻ card điện thoại, nhà mạng Viettel, mệnh giá 20.000 đồng. (Các thẻ card điện thoại này đã sử dụng), HĐXX xét thấy cần tịch thu, tiêu hủy.

[7] Về án phí: Áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án, bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Huỳnh Đức R phạm tội "Trộm cắp tài sản".

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b,h,i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Đức R 06 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù kể từ ngày 05 tháng 11 năm 2021.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

3. Tch thu, tiêu hủy: 01 tuốc-nơ-vit dài 30cm, cán bằng cao su màu đỏ đen; 06 thẻ card điện thoại, nhà mạng Vinaphone, mệnh giá 50.000 đồng; 07 thẻ card điện thoại, nhà mạng Mobifone, mệnh giá 50.000 đồng; 06 thẻ card điện thoại, nhà mạng Viettel, mệnh giá 50.000 đồng; 08 thẻ card điện thoại, nhà mạng Viettel, mệnh giá 20.000 đồng. (Các thẻ card điện thoại này đã sử dụng).

(Hiện đang được tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Liên Chiểu theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 14 tháng 02 năm 2022)

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án.

Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo R phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) và Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

382
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 11/2022/HS-ST

Số hiệu:11/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Liên Chiểu - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về