Bản án về tội trộm cắp tài sản số 108/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 108/2023/HS-PT NGÀY 12/06/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 109/2023/TLPT-HS ngày 27/4/2023 đối với bị cáo T Byă, do có kháng cáo của bị cáo T Byă đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2023/HS-ST ngày 17/3/2023 của Tòa án nhân dân huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk.

- Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: T Byă - Sinh năm 1997, tại tỉnh Đắk Lắk; nơi cư trú: Buôn K, phường N, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; dân tộc: Ê đê; tôn giáo: Tin Lành; trình độ học vấn: 07/12; nghề nghiệp: Làm Nông; Con ông B và bà M. Bị cáo có vợ Lục Thị V và có 01 con sinh năm 2015. Tiền án: Không.

Tiền sự: 01, ngày 27/12/2021 bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột ra quyết định số 137/2021/QĐ-TA áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở điều trị cai nghiện ma túy tỉnh Đắk Lắk.

Nhân thân: Ngày 25/01/2016 T Byă bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột ra quyết định số 28/2016/QĐ-TA áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở điều trị cai nghiện ma túy tỉnh Đắk Lắk; Ngày 03/4/2020 T Byă bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột ra quyết định số 37/2020/QĐ-TA áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở điều trị cai nghiện ma túy tỉnh Đắk Lắk.

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 28/12/2022, hiện đang tạm giam – Có mặt.

Ngoài ra, trong vụ án còn có các bị cáo Ê Hmŏk, Q Hmŏk và D Săn Kpơr nhưng không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Ê Hmŏk nảy sinh ý định trộm cắp tài sản của người khác bán lấy tiền tiêu xài nên rủ Q Hmŏk, T Byă, D Săn Kpơr và đối tượng Đ Buôn Yă, sinh năm 2005 cùng trú tại buôn K, phường N, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk cùng tham gia thì được cả nhóm đồng ý. Khoảng đầu tháng 10/2019 (không xác định được thời gian cụ thể), Ê Hmŏk chuẩn bị các công cụ gồm kìm, tua vít, búa và một số dụng cụ khác làm công cụ để trộm cắp tài sản, đến tối cùng ngày, cả nhóm sử dụng 03 (ba) xe mô tô đi vào hướng khu vực mỏ đá buôn K thuộc phường N, thành phố B để tìm nhà dân có sơ hở trộm cắp tài sản. Khi đến khu vực nhà rẫy của ông Võ Thành N1, thuộc thôn P, xã N2, huyện BĐ, tỉnh Đắk Lắk, phát hiện căn nhà của ông N1 có cổng lớn và hàng rào lưới B40 bao quanh, nghi là có tài sản bên trong nên cả nhóm cất giấu xe mô tô vào bụi cây ven đường rồi sử dụng kìm cắt hàng rào lưới B40 tạo thành một khoảng trống để chui qua. Sau đó Ê Kuil, Q; T, D Săn Kpơr, Đ đi bộ đến cửa chính căn nhà xây trong rẫy của ông N1 rồi cùng nhau sử dụng các công cụ đã chuẩn bị trước đó cạy phá khóa, mở cửa đột nhập vào trong nhà lục lọi, tìm kiếm tài sản. Cả nhóm đã cùng nhau trộm cắp được 01 chiếc tivi màn hình phẳng màu đen; 02 chiếc ghế gỗ làm từ gốc cây có lưng tựa; 02 chiếc lục bình gỗ cao khoảng 1,5m; 01 máy cắt cỏ;

01 máy bơm chìm, các bị cáo mang vác ra ngoài rồi dùng xe mô tô chở số tài sản trộm cắp được về nhà của Ê Kuil cất giấu tìm cách tiêu thụ.

Tổng số tiền các bị cáo bán tài sản trộm cắp được 3.700.000 đồng, cả nhóm cùng sử dụng vào việc chơi trò chơi điện tử và ăn uống, tiêu xài hết.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 04/ KL-ĐGTS ngày 31/3/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS huyện Buôn Đôn xác định giá của 01 chiếc tivi màn hình phẳng màu đen; 02 chiếc ghế gỗ làm từ gốc cây có lưng tựa; 02 chiếc lục bình gỗ cao khoảng 1,5m; 01 máy cắt cỏ; 01 máy bơm chìm có tổng giá trị là 15.500.000 đồng.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 06/2023/HS-ST ngày 17/3/2023 của Tòa án nhân dân huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo T Byă phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo T Byă.

Xử phạt bị cáo T Byă 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam, ngày 28/12/2022.

Ngoài ra, bản án còn quyết định về tội danh và hình phạt đối với các bị cáo Ê Hmŏk, Q Hmŏk và D Săn Kpơr; xử lý vật chứng; trách nhiệm dân sự; án phí và quyền kháng cáo cho các bị cáo.

Ngày 21/3/2023, bị cáo T Byă có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội cơ bản giống nội dung vụ án đã được tóm tắt ở trên.

Quá trình tranh luận, đại diện Viện kiểm sát đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng: Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Xét mức hình phatm 01 năm 06 tháng tù là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó, đề nghị HĐXX phúc thẩm áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 BLTTHS không chấp nhận kháng cáo của bị cáo – giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Buôn Đôn về hình phạt đối với bị cáo T Byă.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, không tranh luận, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận nội dung kháng cáo.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm là phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở pháp lý để kết luận: Vào khoảng tháng 10 năm 2019 Ê Kuil, Q, T, D Săn Kpơr, Đ đi trên 03 chiếc xe máy đến căn nhà xây trong rẫy của ông Võ Thành N1 thuộc thôn P, xã N2, huyện BĐ, rồi cùng nhau sử dụng các công cụ đã chuẩn bị trước đó cạy phá khóa, mở cửa đột nhập vào trong nhà lục lọi, tìm kiếm tài sản. Cả nhóm đã cùng nhau trộm cắp được 01 chiếc tivi màn hình phẳng màu đen; 02 chiếc ghế gỗ làm từ gốc cây có lưng tựa; 02 chiếc lục bình gỗ cao khoảng 1,5m; 01 máy cắt cỏ; 01 máy bơm chìm, các b ị cáo mang vác ra ngoài rồi dùng xe mô tô chở số tài sản trộm cắp được về nhà của Ê Kuil cất giấu và tiêu thụ. Tại bản kết luận định giá tài sản số 04/ KL-ĐGTS ngày 31/3/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS huyện Buôn Đôn xác định giá của 01 chiếc tivi màn hình phẳng màu đen; 02 chiếc ghế gỗ làm từ gốc cây có lưng tựa; 02 chiếc lục bình gỗ cao khoảng 1,5m; 01 máy cắt cỏ; 01 máy bơm chìm có tổng giá trị là 15.500.000 đồng. Do đó, bản án sơ thẩm đã xét xử bị cáo T Byă về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo T Byă, thấy rằng: Xét mức hình phạt 01 năm 06 tháng tù đối với bị cáo T Byă mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt là thỏa đáng, tướng xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo bởi lẽ: Bị cáo T Byă có nhân thân xấu, bị cáo đã ba lần bị xử lý về các hành vi vi phạm pháp luật của mình nhưng không rút ra bài học kinh nghiệm để tu dưỡng, sửa đổi bản thân, trở thành công dân tốt mà lại tiếp tục phạm tội, đồng thời, trong vụ án này bị cáo tham gia thực hiện với vai trò tích cực, nên cần phải có mức hình phạt thích đáng. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo T Byă, cần giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 06/2023/HS-ST ngày 17/3/2023 của Tòa án nhân dân huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk về phần hình phạt đối với bị cáo T Byă.

[3] Về án phí:

Do kháng cáo của bị cáo T Byă không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự; Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo T Byă. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số số 06/2023/HS-ST ngày 17/3/2023 của Tòa án nhân dân huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk về phần hình phạt đối với bị cáo T Byă.

Tuyên bố: Bị cáo T Byă phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo T Byă.

Xử phạt: Bị cáo T Byă 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam, ngày 28/12/2022.

[2] Về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12; khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Bị cáo T Byă phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

37
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 108/2023/HS-PT

Số hiệu:108/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về