TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐỒNG HỚI, TỈNH QUẢNG BÌNH
BẢN ÁN 108/2022/HS-ST NGÀY 29/11/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Trong ngày 29 tháng 11 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 98/2022/TLST-HS ngày 12 tháng 10 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 118 /2022/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 11 năm 2022 đối với bị cáo:
Phạm Thanh N; tên gọi khác: Không; sinh ngày 15 tháng 7 năm 1994 tại Quảng Bình; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn Trung N, xã Nghĩa N, thành phố Đồng H, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Văn M; sinh năm: 1958 và bà: Đào Thị H; sinh năm: 1967; Ông bà đều làm ruộng và trú tại: Thôn Trung N, xã Nghĩa N, thành phố Đồng H, tỉnh Quảng Bình; anh chị em ruột: Có 02 người, N là con thứ hai trong gia đình, chưa có vợ con; tiền án: 01 tiền án (Ngày 25/9/2020 bị Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới xử phạt 24 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản); tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 14/5/2020, bị Công an phường Bắc Nghĩa xử phạt hành chính 1.500.000 đồng về hành vi Trộm cắp tài sản. Ngày 17/6/2020 bị Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Đồng Hới bắt tạm giam để điều tra về hành vi Trộm cắp tài sản nên chưa thi hành, không có quyết định cưỡng chế thi hành của cơ quan có thẩm quyền và đã hết thời hiệu thi hành. Ngày 17/6/2020, bị Công an xã Nghĩa Ninh xử phạt hành chính Cảnh cáo về hành vi Sử dụng trái phép chất ma tuý, đã thi hành.
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 18/7/2022 đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Có mặt tại phiên tòa theo Lệnh trích xuất.
- Bị hại:
1. Chị Phạm Thị H; Sinh năm 1968; Địa chỉ: Thôn Trung N, xã Nghĩa N, thành phố Đồng H, tỉnh Quảng Bình; Vắng mặt.
2. Anh Phạm Tùng L; Sinh năm 1993; Địa chỉ: Tổ dân phố 01, phường Đồng S, TP Đồng H, tỉnh Quảng Bình; Vắng mặt.
3. Anh Đặng Văn T; sinh năm: 1970; Địa chỉ: Thôn Đức H, xã Đức N, TP Đồng H, tỉnh Quảng Bình; Vắng mặt.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Anh Đoàn Ngọc S; Sinh năm: 1966; Địa chỉ: Thôn Trung N, xã Nghĩa N, thành phố Đồng H, tỉnh Quảng Bình; Vắng mặt.
2. Anh Đặng Thanh L; Sinh năm 1991; Địa chỉ: Thôn Đức H, xã Đức N, TP Đồng H, tỉnh Quảng Bình; Vắng mặt.
3. Anh Ngô Mậu C; sinh năm: 1958; Địa chỉ: Tổ dân phố 11, phường Đồng P, TP Đồng H, tỉnh Quảng Bình; Vắng mặt.
4. Anh Lê Anh H; sinh năm: 1962; Địa chỉ: Tổ dân phố 08, phường Đồng S, TP Đồng H, tỉnh Quảng Bình; Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trong tháng 6 và tháng 7 năm 2022, Phạm Thanh N là đối tượng có 01 tiền án về tội Trộm cắp tài sản, đã thực hiện 03 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Đồng Hới, cụ thể:
Vụ thứ nhất: Khoảng 9h30, ngày 17/6/2022, Phạm Thanh N đi bộ ngang qua nhà chị Phạm Thị H ở thôn Trung N, xã Nghĩa N. Phát hiện trong sân nhà có 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA DREAM LIPHAN, màu nâu trắng, BKS 73K4-… của ông Đoàn Ngọc S có gắn sẵn chìa khoá ở ổ khoá. N đi vào nhà đẩy xe ra đường nổ máy tẩu thoát. Khoảng 15h cùng ngày N đem xe đến cầm cố cho ông Ngô Mậu C ở TDP 11, phường Đồng P lấy 700.000 đồng tiêu xài hết.
Tại Kết luận định giá tài sản số 101/KL-HĐĐG ngày 08/6/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố Đồng Hới kết luận: 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA DREAM LIPHAN, màu nâu trắng, BKS 73K4-…, số khung VMXPCG0021U014, số máy VHH1P50SMG01014… trị giá 1.350.000 đồng.
Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Đồng Hới đã thu giữ và trả lại chiếc xe mô tô trên cho bà Phạm Thị H.
Vụ thứ hai: Khoảng 8h30 ngày 05/7/2022, N đi bộ ngang qua nhà anh Phạm Tùng L ở TDP 1, phường Đồng S. Phát hiện 01 chiếc xe mini Nhật cỡ lớn màu xanh để ở sân. Thấy cổng nhà khoá, không có ai trông giữ nên N trèo vào trong sân dùng tay nhấc chiếc xe đạp đưa ra ngoài đường rồi đạp xe tẩu thoát. Sau khi lấy trộm được N đem bán cho 02 người thu mua phế liệu không rõ lý lịch lấy 70.000 đồng tiêu xài hết. Tài sản không thu hồi lại được.
Tại Kết luận định giá tài sản số 112/KL-HĐĐG ngày 31/8/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố Đồng Hới kết luận: 01 xe mini Nhật, cỡ lớn, màu xanh lá mua năm 2016, trị giá 450.000 đồng.
Vụ thứ ba: Khoảng 17h30 ngày 17/7/2022, N đi bộ qua một khu đất trống trên đường Ngô Thế L ở thôn Trung N, Nghĩa N. Phát hiện 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE, RSX F1, BKS 73B1-... màu sơn đỏ đen, của ông Đặng Văn T, chìa khoá cắm sẵn trên xe. N mở khoá điều khiển xe đến gặp anh Lê Anh H ở TDP 8, Đồng S, để lại xe mô tô trên để làm tin và hỏi mượn 300.000 đồng, tiêu xài hết.
Tại Kết luận định giá tài sản số 112/KL-HĐĐG ngày 31/8/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố Đồng Hới kết luận: 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE RSX F1 màu đỏ đen, BKS 73B1-…, số máy JA52E0256…, số khung RLHJA3841MY117… mua năm 2020, trị giá 16.100.000 đồng.
Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Đồng Hới đã thu giữ và trả lại chiếc xe mô tô trên cho ông Đặng Văn T.
Trách nhiệm dân sự: Anh Phạm Tùng L yêu cầu Phạm Thanh N bồi thường 450.000 đồng. Ông Ngô Mậu C và anh Lê Anh H không yêu cầu bồi hoàn.
Tại bản Cáo trạng số 97/CT - VKSĐH -KT ngày 10 tháng 10 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đồng Hới truy tố bị cáo Phạm Thanh N ra trước Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới để xét xử về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1, Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đồng Hới đã phát biểu lời luận tội, chứng minh và phân tích tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo Phạm Thanh N đã thực hiện. Bị cáo Phạm Thanh N có nhân thân xấu. Giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử kết tội bị cáo theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng có xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo khi áp dụng hình phạt. Đề nghị HĐXX:
Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm g, h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt Phạm Thanh N từ 18 tháng đến 24 tháng tù. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015, các Điều 584, 585 và 589 Bộ luật Dân sự, buộc bị cáo Phạm Thanh N phải bồi thường thiệt hại cho bị hại là anh Phạm Tùng L số tiền 450.000 đồng.
Bị cáo Phạm Thanh N phải chịu án phí hình sự và dân sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước theo quy định của pháp luật.
Đối với anh Ngô Mậu C và anh Lê Anh H là những người có liên quan đến hành vi phạm tội của N nhưng đều không biết nên không bị xử lý nhưng tại phiên tòa cần răn đe, phê phán, giáo dục phòng ngừa chung.
Quá trình xét hỏi tại phiên tòa, bị cáo Phạm Thanh N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Đồng Hới, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đồng Hới, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, về trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy định. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Đối với người tham gia tố tụng là bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Do vậy, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo quy định của pháp luật.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Thanh N khai nhận đã thực hiện hành vi phạm tội đúng như cáo trạng đã truy tố, lời khai nhận tội tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của các bị hại, của những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và phù hợp với các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án. Vì vậy, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở xác định: Từ tháng 6 đến tháng 7 năm 2022, Phạm Thanh N là đối tượng có 01 tiền án về tội Trộm cắp tài sản, đã lợi dụng sơ hở của bị hại trong việc quản lý và bảo vệ tài sản, bị cáo đã thực hiện 03 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Đồng Hới, tổng trị giá 17.900.000 đồng. Vì vậy, Phạm Thanh N phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1, Điều 173 Bộ luật Hình sự. Bản Cáo trạng của Viện kiểm sát và kết luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa truy tố bị cáo Phạm Thanh N theo tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3] Xét tính chất nguy hiểm, mức độ hậu quả của hành vi và nhân thân của bị cáo thấy rằng: Hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, làm mất trật tự trị an trên địa bàn thành phố, gây tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân. Bị cáo Phạm Thanh N không có nghề nghiệp, không chịu khó lao động làm ăn chân chính. Để có tiền tiêu xài cá nhân, Phạm Thanh N đã trộm cắp tài sản của người khác. Hành vi của Phạm Thanh N thể hiện sự coi thường pháp luật, không những gây thiệt hại về tài sản mà còn gây tâm lý hoang mang, lo lắng trong quần chúng nhân dân. Bản thân Phạm Thanh N từng bị xử phạt tù về hành vi trộm cắp tài sản, hiện đang có án tích nhưng bị cáo Phạm Thanh N không lấy đó làm bài học để giữ mình. Bị cáo quá xem thường pháp luật, khi không có tiền thì trộm cắp. Hội đồng xét xử sẽ áp dụng khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự để xét xử bị cáo, cần cách ly ra khỏi xã hội một thời gian mới mong cải tạo giáo dục bị cáo.
[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:
Phạm Thanh N phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm và thực hiện 03 vụ trộm cắp tài sản trị giá trên 2.000.000 đồng nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội hai lần trở lên” theo điểm g, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự cần áp dụng đối với bị cáo.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Khi lượng hình cũng xem xét cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải thuộc tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
Do bị cáo đang bị tạm giam nên cần tiếp tục tạm giam để đảm bảo thi hành án, theo quy định tại Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
[6] Đối với anh Ngô Mậu C và anh Lê Anh H là những người có liên quan đến hành vi phạm tội của N nhưng đều không biết nên không bị xử lý nhưng tại phiên tòa cần răn đe, phê phán, giáo dục phòng ngừa chung.
[7] Về trách nhiệm dân sự:
Đối với 02 xe mô tô mà Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Đồng Hới đã thu giữ và trả lại gồm xe mô tô nhãn hiệu HONDA DREAM LIPHAN, màu nâu trắng, BKS 73K4-xxxx, số khung VMXPCG0021…, số máy VHH1P50SMG01014… cho bà Phạm Thị H; và xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE, RSX F1, BKS 73B1-37… màu sơn đỏ đen cho ông Đặng Văn T, sau khi nhận lại tài sản thì bà Phạm Thị H và ông Đặng Văn T không có yêu cầu gì về phần dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan gồm ông Ngô Mậu C và anh Lê Anh H không yêu cầu bồi hoàn nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Anh Phạm Tùng L yêu cầu bị cáo Phạm Thanh N bồi thường 450.000 đồng đối với 01 xe mini Nhật, cỡ lớn, màu xanh lá mua năm 2016. Xét yêu cầu bồi thường của bị hại là chính đáng, số tiền yêu cầu bồi thường tương xứng với giá trị tài sản mà bị cáo Phạm Thanh N đã chiếm đoạt; tại phiên toà bị cáo Phạm Thanh N cũng thừa nhận và chấp nhận bồi thường do đó cần chấp nhận để buộc Phạm Thanh N phải bồi thường cho bị hại Phạm Tùng L.
[8] Vật chứng vụ án:
Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Đồng Hới đã thu giữ và trả lại gồm xe mô tô nhãn hiệu HONDA DREAM LIPHAN, màu nâu trắng, BKS 73K4-2…, số khung VMXPCG0021U014, số máy VHH1P50SMG0101… cho bà Phạm Thị H…; và xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE, RSX F1, BKS 73B1- 37… màu sơn đỏ đen cho ông Đặng Văn T. Đây là tài sản thuộc sở hữu của bà Phạm Thị H; ông Đặng Văn T. Sau khi nhận lại tài sản thì bà Phạm Thị H và ông Đặng Văn T không không có ý kiến gì và việc xử lý vật chứng vụ án nêu trên của cơ quan điều tra đúng quy định của pháp luật, nên Hội đồng xét xử không xem xét lại.
Đối với 01 xe mini Nhật, cỡ lớn, màu xanh lá mua năm 2016 của anh Phạm Tùng L, sau khi lấy trộm được bị cáo N đem bán cho 02 người thu mua phế liệu không rõ lý lịch lấy 70.000 đồng tiêu xài hết. Tài sản không thu hồi lại được. Anh Phạm Tùng L đã yêu cầu bị cáo Phạm Thanh N bồi thường 450.000 đồng tương xứng với giá trị tài sản mà bị cáo Phạm Thanh N đã chiếm đoạt.
[9] Về án phí: Bị cáo Phạm Thanh N phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội ngày 30/12/2016 để sung quỹ Nhà nước theo quy định của pháp luật. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các Điều 331, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh: Tuyên bố: Bị cáo Phạm Thanh N phạm tội “Trộm cắp tài sản".
2. Về Điều luật áp dụng và hình phạt:
- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm g, điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;
Xử phạt Phạm Thanh N 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 18/7/2022.
Tiếp tục tạm giam bị cáo Phạm Thanh N với thời hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm theo Quyết định tạm giam của Hội đồng xét xử để đảm bảo thi hành án.
3. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015, các Điều 584, 585 và 589 Bộ luật Dân sự, buộc bị cáo Phạm Thanh N phải bồi thường thiệt hại cho bị hại là anh Phạm Tùng L số tiền 450.000 đồng.
Sau khi án có hiệu lực, kể từ ngày có đơn yêu cầu của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu thêm khoản tiền lãi đối với số tiền còn chưa thi hành xong theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự tương ứng với thời gian chậm thi hành.
4. Về án phí sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 21, 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội ngày 30/12/2016 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án:
Xử buộc bị cáo Phạm Thanh N phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (29/11/2022). Đối với bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án hạn trong 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 108/2022/HS-ST
Số hiệu: | 108/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Hới - Quảng Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/11/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về