Bản án về tội trộm cắp tài sản số 106/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 106/2022/HS-ST NGÀY 26/09/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 9 năm 2022, tại Hội trường Tòa án nhân dân thị xã B mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 95/2022/TL-HSST ngày 08 tháng 9 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn H (Đen); Sinh năm 1990 tại B, Q; nơi cư trú: thôn Bồ Mưng 2, xã Đ, thị xã B, tỉnh Q; nghề nghiệp: lao động phổ thông; trình độ văn hóa: 11/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; con ông: Nguyễn L (sống) và bà: Huỳnh Thị L1 (tên gọi khác: Huỳnh Thị L2, Nguyễn Thị L2) (sống); bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án: ngày 26/11/2019 bị Tòa án nhân dân huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Tiền sự: không;

Nhân thân:

- Ngày 05/5/2014, bị Công an xã Điện T, thị xã B xử phạt Cảnh cáo về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy.

- Ngày 22/01/2015 bị Tòa án nhân dân thị xã B xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và 12 tháng tù về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” (Bản án số 05/2015/HSST). Tổng hợp hình phạt cho 02 tội là 21 tháng tù. Ngày 24/01/2016 chấp hành xong.

Bị bắt tạm giữ ngày 25/6/2022, có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại: Ông Nguyễn Hoàng L3, sinh năm: 1998; địa chỉ: khối P, phường Điện A, thị xã B, tỉnh Q (vắng mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Ông Nguyễn Hữu D; sinh năm: 1966 địa chỉ: thôn Q, xã Hòa P, huyện H, thành phố Đ (vắng mặt)

+ Ông Nguyễn Bá M, sinh năm: 1976; địa chỉ: thôn P, xã Điện T, thị xã B, tỉnh Q (có mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tối ngày 24/6/2022, Nguyễn Văn H điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 43Y1–xxxx đến nhà ông Võ T tìm Võ T1 (con ông T) có việc. Khoảng 21 giờ cùng ngày khi đến nhà ông T, Hải gặp ông T hỏi về T1 thì ông T nói không có T1 ở nhà, liền lúc đó H nhìn thấy trên ghế sôpha ở phòng khách nhà ông T có 01 điện thoại di động hiệu Iphone XS màu vàng của anh Nguyễn Hoàng L3 đang để nên nảy sinh ý định chiếm đoạt điện thoại của anh L3. Để thực hiện hành vi, H đến ngồi vào ghế sôpha và giả vờ nói chuyện với ông T, vừa nói vừa quan sát xung quanh thấy ngoài ông T ra thì không có ai, lợi dụng sơ hở của ông T, H đã lén lút lấy trộm cái điện thoại rồi đi ra ngoài bỏ vào cốp xe mô tô biển kiểm soát 43Y1–xxxx xong điều khiển xe đến đường ĐH5 (tên gọi khác đường 33) thuộc xã Điện T, thị xã B chơi. Đối với anh L3, sau khi phát hiện mất điện thoại, anh L3 đã truy cập ứng dụng định vị thì biết được điện thoại đang ở đường ĐH5 nên trình báo Công an xã Điện Thắng Nam phối hợp với Công an xã Điện Thắng Trung kiểm tra bắt giữ.

Theo Kết luận định giá tài sản số 46/HĐ.ĐG ngày 28 tháng 6 năm 2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã B thì 01 điện thoại di động hiệu Iphone XS màu vàng của anh Nguyễn Hoàng L3 vào thời điểm tháng 6/2022 có giá trị là 6.000.000 đồng.

Quá trình điều tra, Nguyễn Văn H không thừa nhận hành vi phạm tội của mình, H khai rằng điện thoại trên Hải lượm được ở ngoài cổng nhà ông T. Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại bản cáo trạng số 91/VKS-HS ngày 07/9/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã B đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn H về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 điều 173 BLHS. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị HĐXX áp dụng: khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015, điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm h Khoản 1 Điều 52 BLHS; Đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo từ 18-24 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: người bị hại đã nhận lại tài sản bị mất và không yêu cầu bồi thường thiệt hại nên không xem xét.

Về xử lý vật chứng: đề nghị tiếp tục lưu giữ 01 DVD ghi lại diễn biến tại thời điểm diễn ra hành vi phạm tội của bị cáo.

Bị cáo Nguyễn Văn H nói lời nói sau cùng: mong HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án: Khoảng 21 giờ ngày 24/6/2022, tại nhà ông Võ T Nguyễn Văn H đã có hành vi lén lút trộm cắp của anh Nguyễn Hoàng L3 01 điện thoại di động hiệu Iphone XS màu vàng trị giá 6.000.000 đồng. Sau khi trộm được điện thoại, H cất giấu vào xe rồi chạy ra đường ĐH5 thuộc xã Điện Thắng Trung, thị xã B chơi thì bị phát hiện bắt giữ.

Hành vi lén lút trộm cắp tài sản có giá trị 6.00.000đ của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 điều 173 BLHS. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng đối chiếu với tang vật vụ án và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do đó, HĐXX có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Khoản 1 Điều 173 BLHS.

[3] Xét hành vi, tính chất tác hại, hậu quả của vụ án thì thấy: Bị cáo là thanh niên trưởng thành, có sức khỏe nhưng không lo làm ăn lại có tính tham lam nên đã vi phạm pháp luật. Lợi dụng sự sơ hở của người bị hại, bị cáo đã lén lút trộm cắp tài sản có giá trị tổng cộng 6.000.000đ. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất an ninh trật tự tại địa phương nên cần xét xử bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội đã gây ra nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, biết ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điểm s Khoản 1, 2 Điều 51 BLHS, HĐXX sẽ áp dụng các tình tiết này khi lượng hình đối với bị cáo. Tuy nhiên, bị cáo có 01 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích mà tiếp tục phạm tội do cố ý. Đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS. Đồng thời, bị cáo là người có nhân thân xấu, đã bị xử lý hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, bị xét xử về hành vi trộm cắp tài sản. Vì vậy, HĐXX xét thấy cần xử phạt tù giam mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo.

- Đối với xe mô tô hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 43Y1–xxxx: đây là xe của anh Nguyễn Hữu D, anh D gởi sửa xe tại quán anh M. Anh D và anh M hoàn toàn không biết việc Hải sử dụng xe để trộm cắp tài sản nên không xem xét xử lý.

[5] Về trách nhiệm dân sự: người bị hại đã nhận lại tài sản bị mất và không có yêu cầu bồi thường thiệt hại nên miễn xét.

[6] Về xử lý vật chứng: 01 DVD là chứng cứ ghi lại diễn biến vào thời điểm bị cáo thực hiện hành vi phạm tội nên tiếp tục lưu giữ kèm hồ sơ vụ án.

[7] về án phí: bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

 Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng : Khoản 1 Điều 173; Điểm s Khoản 1, 2 Điều 51; Điểm h Khoản 1 Điều 52 BLHS.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn H 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ (ngày 25/6/2022) Về xử lý vật chứng: tiếp tục lưu giữ đoạn DVD chứa đoạn video ghi lại diễn biến thời điểm bị cáo thực hiện hành vi phạm tội (vật chứng đang lưu kèm hồ sơ vụ án)

Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 BLTTHS và Luật phí, lệ phí.

Bị cáo Nguyễn Văn H phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hình sự gởi đến.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

15
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 106/2022/HS-ST

Số hiệu:106/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Điện Bàn - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về