Bản án về tội trộm cắp tài sản số 103/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH - TP. HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 103/2021/HS-ST NGÀY 21/10/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 10 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Tân Bình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 113/2021/TLST-HS ngày 16 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 209/2021/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 10 năm 2021 đối với bị cáo:

Phạm Hoàng Anh V, sinh năm 1979 tại Tp. Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú: xã A, huyện B, Tp. Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: chạy xe ôm; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Quang N, sinh năm 1951 và bà: Nguyễn Thị C, sinh năm: không rõ; vợ, con: không có; nhân thân: Quyết định số 0015828/QĐ-XPHC ngày 25/3/2020 Công an xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn, Tp. Hồ Chí Minh xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi đánh bạc trái phép; tiền án: không; tiền sự: không; tạm giữ, tạm giam: 09/5/2021. Có mặt.

- Bị hại:

1. Ông Đặng Xuân B, sinh năm 1956, nơi cư trú: Phường C, quận D, Tp. Hồ Chí Minh. Vắng mặt.

2. Anh Lê Văn T, sinh năm 1996, nơi cư trú: Phường C, quận D, Tp. Hồ Chí Minh. Vắng mặt.

3. Chị Đỗ Thị N, sinh năm 1981, nơi cư trú: Phường C, quận D, Tp. Hồ Chí Minh. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Anh Nguyễn Văn T1, sinh năm 1988, nơi cư trú:, phường E, quận F, Tp.Hồ Chí Minh. Vắng mặt.

2. Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1989, nơi cư trú: phường E, quận F, Tp.Hồ Chí Minh. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do không có tiền tiêu xài, Phạm Hoàng Anh V thường đi bộ một mình tìm tài sản sơ hở để trộm cắp. Cụ thể:

- Vụ thứ nhất: Khoảng 09 giờ 45 phút ngày 06/5/2021, Phạm Hoàng Anh V đi bộ một mình đến quán cháo lươn số 27 Nguyễn Quang B, Phường C, quận D. V phát hiện trong quán không có người trông coi, trên quầy bán hàng có để 01 điện thoại di động hiệu Samsung A30 màu xanh của ông Đặng Xuân B. V đi đến lén lấy điện thoại di động rồi nhanh chóng bỏ đi. Sau đó, V mang điện thoại vừa trộm được đến cửa hàng điện thoại di động H, địa chỉ: phường E, quận F bán cho anh Nguyễn Văn T1 với giá 2.000.000 đồng và tiêu xài hết.

- Vụ thứ 2: Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 07/5/2021, Vũ đi bộ một mình đến trước tiệm tạp hóa số 19/76 Hoàng Hoa T, Phường C, quận D do chị Đỗ Thị N làm chủ. V phát hiện thấy trên bàn phía trước tiệm có để 01 điện thoại di động hiệu Iphone 8plus màu vàng. V thấy chị N đang bán hàng một mình lên giả vờ hỏi mua 01 trái dừa. Khi chị N quay vào phía trong lấy dừa, V dùng tay lén lút lấy trộm chiếc điện thoại di động trên bỏ vào túi quần phía trước rồi bỏ đi. Sau đó, V đi bộ đến đường T, bán chiếc điện thoại này cho một người đàn ông mua bán đồ cũ (không rõ lai lịch) được 500.000 đồng và tiêu xài hết.

- Vụ thứ ba: Khoảng 08 giờ 50 phút ngày 09/5/2021, khi đi đến quán cà phê số 120 Bình G, Phường C, quận D, V thấy trong quán không có ai trông coi nên đi vào trong. V phát hiện thấy chiếc điện thoại di động hiệu Realme 2 màu đen của anh Lê Văn T1 để trên bàn cạnh quầy bán hàng, V dùng tay lén lút lấy chiếc điện thoại bỏ vào túi quần rồi nhanh chóng bỏ đi. Sau đó, V mang điện thoại vừa trộm được đến cửa hàng điện thoại di động số 713 Trường C, phường E, quận F bán cho anh Nguyễn Văn H được 800.000 đồng.

Vt chứng vụ án:

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung A30 màu xanh, là tài sản bị chiếm đoạt, trị giá 2.600.000 đồng, đã thu hồi trả lại cho bị hại ông Đặng Xuân B. Ông B đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì thêm.

- 01 điện thoại di động hiệu Realme 2 màu đen, là tài sản bị chiếm đoạt, trị giá 2.100.000 đồng, đã thu hồi trả lại cho bị hại anh T, Anh T đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì thêm.

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 8plus màu vàng, là tài sản bị chiếm đoạt, trị giá 7.000.000 đồng, không thu hồi được. Chị N có yêu cầu V bồi thường 7.000.000 đồng là trị giá chiếc điện thoại không thu hồi được.

- Thu giữ của V: 01 nón màu xám, 01 bộ quần áo, số tiền 800.000 đồng (tiền bán điện thoại trộm cắp của anh T mà có).

Quá trình điều tra, Phạm Hoàng Anh V đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nêu trên và khai khi bán điện thoại cho anh H và anh T1, V không nói nguồn gốc là do V trộm cắp mà có.

Đi với Nguyễn Văn H và Nguyễn Văn T1, khi mua điện thoại di động không biết do V phạm tội mà có, phù hợp lời khai của V nên không có căn cứ xử lý về hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Anh H và anh Nguyễn Văn T1 không yêu cầu V trả lại số tiền đã mua điện thoại.

Đi với người đàn ông mua chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 8plus màu vàng V trộm cắp của chị N, do không xác định được lai lịch nên không có cơ sở để mời làm việc, thu hồi vật chứng, khi làm việc được, nếu có căn cứ sẽ xử lý sau.

Ti bản cáo trạng số 116/CT-VKS ngày 16 tháng 7 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình đã truy tố bị cáo Phạm Hoàng Anh V về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Ti phiên tòa:

- Trong phần luận tội đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình nêu tóm tắt nội dung vụ án, các nguyên nhân điều kiện phát sinh tội phạm, tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, nêu các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

Về vật chứng và trách nhiệm dân sự thì đề nghị xử lý theo quy định pháp luật.

- Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, không có tranh luận gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo Phạm Hoàng Anh V, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình được phân công điều tra giải quyết vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, tranh luận nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản tiếp nhận nguồn tin về tội phạm, bản kết luận điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra, bản cáo trạng của Viện kiểm sát, lời khai của người bị hại, người làm chứng cùng tang vật, các tài liệu chứng cứ khác thu được trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy đủ cơ sở kết luận bị cáo Phạm Hoàng Anh V đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 điện thoại di động hiệu Samsung A30 màu xanh trị giá 2.600.000 đồng của ông Đặng Xuân B, 01 điện thoại di động hiệu Realme 2 màu đen trị giá 2.100.000 đồng của anh Lê Văn T và 01 điện thoại di động hiệu Iphone 8plus màu vàng trị giá 7.000.000 đồng của chị Đỗ Thị N, đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo là nghiêm trọng và gây nguy hiểm cho xã hội. Nó vừa trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu, quản lý tài sản hợp pháp của công dân được Nhà nước và pháp luật bảo hộ, gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo đã thành niên, đủ khả năng nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác bị pháp luật ngăn cấm và bị trừng trị nhưng do động cơ tham lam nên bị cáo đã cố tình thực hiện tội phạm một cách liều lĩnh, bất chấp sự trừng trị của pháp luật. Xét nhân thân bị cáo là xấu, bị cáo đã bị xử phạt hành chính nhưng không lấy làm bài học cho bản thân mà lại tiếp tục phạm tội. Trong vụ án này, bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội 03 lần với mỗi lần đủ yếu tố cấu thành tội phạm, thuộc trường hợp “Phạm tội 02 lần trở lên”, là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết áp dụng hình phạt tù thật nghiêm nhằm mục đích giáo dục, cải tạo bị cáo đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ: Hội đồng xét xử xem xét tình tiết: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tài sản bị chiếm đoạt đã được thu hồi một phần và trả lại cho bị hại, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại ông Đặng Xuân B và anh Lê Văn T đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Bị hại chị Đỗ Thị N yêu cầu bị cáo bồi thường 7.000.000 đồng là trị giá điện thoại bị cáo chiếm đoạt của chị không thu hồi được. Bị cáo đồng ý. Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo, buộc bị cáo bồi thường cho chị N số tiền 7.000.000 đồng.

Ngưi có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Văn H không biết điện thoại di động hiệu Samsung A30 bị cáo mang bán là do phạm tội mà có nên đã đồng ý mua với giá 2.000.000 đồng. Anh H đã tự nguyện giao nộp lại chiếc điện thoại cho cơ quan công an và không yêu cầu bị cáo bồi thường lại số tiền đã mua điện thoại. Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của anh H không yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 2.000.000 đồng trên.

Ngưi có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Văn T1 không biết điện thoại di động hiệu Realme 2 bị cáo mang bán là do phạm tội mà có nên đã đồng ý mua với giá 800.000 đồng. Anh T1 đã tự nguyện giao nộp lại chiếc điện thoại cho cơ quan công an và không yêu cầu bị cáo bồi thường lại số tiền đã mua điện thoại.

Hi đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của anh T1 không yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 800.000 đồng trên.

[5] Về vật chứng vụ án:

- Đối với 01 nón màu xám và 01 bộ quần áo thu giữ của bị cáo, xét thấy đây là những vật không có giá trị và bị cáo không có yêu cầu nhận lại nên tịch thu và tiêu hủy.

- Đối với số tiền 800.000 đồng thu giữ của bị cáo, bị cáo khai đây là tiền bán điện thoại trộm cắp của anh T1 mà có, xét thấy đây là tiền do bị cáo thu lợi bất chính mà có nên cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

Vì các lẽ nêu trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Căn cứ Điều 106; Điều 135 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

[1] Tuyên bố bị cáo Phạm Hoàng Anh V phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo : Phạm Hoàng Anh V 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09/5/2021.

[2] Buộc bị cáo bồi thường cho chị Đỗ Thị N số tiền 7.000.000 (bảy triệu) đồng.

Kể từ ngày chị Đỗ Thị N có đơn xin thi hành án cho đến khi thi hành xong các khoản như đã nêu trên, bị cáo còn phải chịu khoản tiền lãi chậm thi hành án tương ứng với thời gian chưa thi hành án theo quy định tại Điều 357 và 468 Bộ luật dân sự.

[3] Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 800.000 (tám trăm ngàn) đồng.

Tch thu và tiêu hủy: 01 nón màu xám, 01 quần jean màu xám và 01 áo thun màu đỏ.

(Theo phiếu nhập kho vật chứng số 104/PNK ngày 01/7/2021 của Công an quận Tân Bình).

[4] Bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 350.000 (ba trăm năm mươi ngàn) đồng án phí Dân sự sơ thẩm.

[5] Trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sư có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm 2014); Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm 2014).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 103/2021/HS-ST

Số hiệu:103/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về