TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC GIANG, TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 102/2022/HSST NGÀY 29/06/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 29 tháng 6 năm 2022, tại điểm cầu Trung tâm Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang và điểm cầu thành phần Trại tạm giam công an tỉnh Bắc Giang, Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang xét xử phiên tòa trực tuyến công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 105/2022/QĐST-HS ngày 15 tháng 6 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 105/2022/QĐXXST – HS ngày 15/6/2022 đối với các bị cáo đối với bị cáo:
Họ và tên: Thân Văn H - sinh năm 1978. Tên gọi khác: Không, Giới tính: Nam. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: thôn Đ, xã Song Mai, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Văn hóa: 12/12; Con ông: Thân Văn B, sinh năm 1954; Con bà: Trần Thị L, sinh năm: 1956. Bị cáo có 04 anh em, bị cáo là thứ ba. Vợ: Vũ Thị Ph (đã ly hôn). Con: có 01 con sinh năm 2007.
Tiền án:
+ Bản án hình sự sơ thẩm số 114/2018/HSST ngày 29/7/2018, Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
+ Bản án hình sự sơ thẩm số 128/2020/HSST ngày 07/9/2020, Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”; chấp hành xong án phạt tù tháng 4 năm 2021.
Tiền sự: Không.
Nhân thân:
+ Bản án hình sự sơ thẩm số 259/2008/HSST ngày 21/76/2008, Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
+ Ngày 09/11/2017, Công an phường Đa Mai, thành phố Bắc Giang xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/3/2022, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Giang.
Bị cáo H có mặt tại điểm cầu thành phần là trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Giang.
* Bị hại: Công ty cổ phần xây dựng đầu tư Đông An Địa chỉ: Số nhà *** đường T, phường Yên Sở, quận Hoàng Mai, Hà Nội Đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Xuân Q – Chức vụ: Giám đốc (Vắng mặt) Đại diện theo uỷ quyền tham gia tố tụng: Anh Giáp T A, sinh năm 1984.
Địa chỉ: thôn K, xã V, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang (Vắng mặt)
* Người chứng kiến:
- Anh Quách Văn H, sinh năm 1985 (Vắng mặt) Địa chỉ: tổ dân phố P, thị trấn Thắng, huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang
- Anh Nguyễn Huy H, sinh năm 1992 (Vắng mặt) Địa chỉ: tổ Trong, thị trấn Cao Thượng, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Thân Văn H, sinh năm 1978 trú tại thôn Đồng Bùi, xã Song Mai, thành phố Bắc Giang có 02 tiền án về tội trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích. Khoảng 06 giờ ngày 09/2/2022, H điều khiển xe mô tô BKS 98Y3-5507 đi từ nhà đến khu công nghiệp Song Khê – Nội Hoàng thuộc địa phận xã Song Khê, thành phố Bắc Giang mục đích trộm cắp tài sản.
Khoảng 08 giờ cùng ngày, H đi đến công trình xây dựng Trạm xử lý nước thải tại khu công nghiệp Song Khê của Công ty cổ phần đầu tư Đông An, địa chỉ trụ sở chính ở số nhà 154-156, Tam Trinh, phường Yên Sở, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội. Quan sát xung quanh thấy không có người trông coi, H đi vào trong công trình thì phát hiện thấy có nhiều cây thép ống và thép hộp vuông. H lấy 06 cây thép rồi dùng dây thép buộc lại để lên yên xe mô tô rồi điều khiển xe rời khỏi hiện trường. Khi H đi cách công trình khoảng 500m thì bị anh Giáp T A, sinh năm 1984 trú tại thôn Kim Bảng, xã Việt Lập, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang (là chỉ huy trưởng công trình) phát hiện. Giáp T A đã gọi 02 công nhân là Quách Văn H, sinh năm 1985, trú tại tổ dân phố Phúc Thắng, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang và Nguyễn Huy H, sinh năm 1992, trú tại thị trấn Cao Thượng, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang cùng truy đuổi. H dừng xe lại thì bị mọi người giữ lại. Khi Giáp T A gọi điện thoại báo cho Đồn Công an Q Châu, huyện Việt Yên thì H bỏ chạy và để lại 06 cây thép và 01 xe mô tô BKS 98Y3 – 5507.
Ngày 21/3/2022, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Bắc Giang triệu tập H đến làm việc thì H đầu thú và khai nhận hành vi trộm cắp tài sản.
Cơ quan điều tra đã yêu cầu định giá 06 cây thép đã thu giữ. Kết luận định giá tài sản số 36 ngày 02/3/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Bắc Giang kết luận:
- 03 cây thép ống dài 3m, đường kính 4,5cm, trọng lượng 6,8kg/cây, đã qua sử dụng, có trị giá tại thời điểm ngày 09/02/2022 là (10.000 đồng/1kg x 6,8kg) x 3 = 204.000 đồng.
- 01 cây thép hộp vuông kích thước 2,35 x (0,04x0,04)m, trọng lượng 4,2kg, đã qua sử dụng, có trị giá tại thời điểm ngày 09/02/2022 là 10.000 đồng/1kg x 4,2kg = 42.000 đồng.
- 01 cây thép hộp vuông, kích thước 0,56 x (0,05x0,05)m hàn với 01 cây thép hộp chữ nhật kích thước 01 x (0,06x0,03)m, trọng lượng 3,1kg, đã qua sử dụng, có trị giá tại thời điểm ngày 09/02/2022 là 10.000 đồng/1kgx 3,1kg = 31.000 đồng.
- 01 cây thép ống, kích thước 1,95m, đường kính 4,5cm, trọng lượng 4,1kg, đã qua sử dụng, có trị giá tại thời điểm ngày 09/02/2022 là 10.000 đồng/1kg x 4,1kg = 41.000 đồng.
Tổng trị giá tài sản là 318.000 đồng.
Cơ quan điều tra đã cho anh Giáp T A xác định hiện trường và nhận dạng ảnh Thân Văn H. Kết quả anh Giáp T A xác định đúng hiện trường bị trộm cắp phù hợp với lời khai của H và nhận đúng ảnh Thân Văn H là người thực hiện hành vi trộm cắp tài sản ngày 09/02/2022.
Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: Cơ quan điều tra đã trả lại anh Giáp T A đại diện hợp pháp của Công ty cổ phần đầu tư Đông An 06 cây thép. Anh Giáp T A không yêu cầu bồi thường.
Đối với chiếc xe mô tô BKS 98Y3-5507: Kết quả điều tra xác định là tài sản thuộc sở hữu của bị cáo H. Cơ quan điều tra đã nhập kho vật chứng để xử lý theo quy định.
Bản cáo trạng số 102/CT-VKS ngày 31/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Giang đã truy tố bị cáo Thân Văn H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 điều 173 BLHS.
Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Giang trong phần luận tội đã phân tích, đánh giá các chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo, xác định đủ căn cứ chứng minh bị cáo Thân Văn Hưmg đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” và vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng điểm b khoản 1 điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51; điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Thân Văn H từ 06 đến 08 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 21/3/2022. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.
Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 xe mô tô BKS 98Y3 - 5507 đã qua sử dụng.
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu bồi thường dân sự nên không đặt ra xem xét giải quyết.
Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của UBNTVQH14 về án phí, lệ phí Toà án, bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Tại phiên tòa, bị cáo Thân Văn H khai nội dung cáo trạng đã truy tố về hành vi phạm tội của bị cáo là đúng. Bị cáo thừa nhận đã trộm cắp của Công ty cổ phần đầu tư Đông An tổng số 06 cây thép ống tại công trình xây dựng Trạm xử lý nước thải tại khu công nghiệp Song Khê. Bị cáo không bào chữa, không tranh luận gì. Bị cáo nhận thấy hành vi của mình là sai, xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Người bị hại, Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, Người chứng kiến vắng mặt tại phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai khiếu nại gì. Hội đồng xét xử đánh giá các hành vi, quyết định của cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thực hiện trong quá trình giải quyết vụ án là hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:
Lời khai của bị cáo Thân Văn H tại phiên toà hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai đại diện theo uỷ quyền của bị hại Công ty cổ phần đầu tư Đông An trong gia đoạn điều tra, và phù hợp với các chứng cứ. Từ các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra đã được thẩm tra tại phiên tòa, có căn cứ xác định:
Bị cáo Thân Văn H đã bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích. Ngày 09/02/2021, bị cáo Thân Văn H trộm cắp của Công ty cổ phần đầu tư Đông An 06 cây thép ống trị giá 318.000 đồng Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi của mình là sai, nH vẫn thực hiện, lỗi của bị cáo là cố ý. Hành vi của bị cáo Hồng đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm b khoản 1 điều 173 BLHS “đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật ngày, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm”. Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố 17,Bắc Giang đã truy tố bị cáo về tội danh, điều luật như cáo trạng đã nêu là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Vai trò, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Về nhân thân: Trước khi phạm tội, bị cáo là người có nhân thân xấu đã từng bị xét xử về hình sự và xử phạt hành chính.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, sau khi phạm tội bị cáo ra đầu thú nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Từ tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội nên buộc bị cáo phải cách ly khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục riêng và răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên, khi lượng hình, Hội đồng xét xử có xem xét thái độ ăn năn, hối cải của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình. Hội đồng xét xử xét thấy đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về hình phạt áp dụng cho bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội của bị cáo nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội với mục đích tư lợi, ngoài hình phạt chính lẽ ra Hội đồng xét xử còn áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền để sung công quỹ nhà nước theo khoản 5 điều 173 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, do bị cáo là không có việc làm, không có tài sản, nên Hội đồng xét xử xét miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.
[6] Về vật chứng: Đối với 01 xe mô tô BKS 98Y3 – 5507 đã qua sử dụng là tài sản thuộc sở hữu của bị cáo H liên quan đến hành vi phạm tội cần tịch thu sung quỹ nhà nước phù hợp điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
[7] Tiếp tục tạm giam bị cáo Thân Văn H 45 ngày để đảm bảo thi hành án theo quy định tại Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự.
[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của UBNTVQH14 về án phí, lệ phí Toà án.
[9] Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm b khoản 1 điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51; điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Thân Văn H 08 (Tám) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 21/3/2022.
2. Về vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 xe mô tô BKS 98Y3 – 5507, số máy 5A313433, số khung 6A013433 đã qua sử dụng.
3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Thân Văn H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án theo quy định pháp luật.
5. Hướng dẫn thi hành án dân sự: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 102/2022/HSST
Số hiệu: | 102/2022/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Giang - Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/06/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về