Bản án về tội trộm cắp tài sản số 100/2022/HSST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 100/2022/HSST NGÀY 18/07/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Bình Thuận, Tòa án nhân dân thành phố P xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 56/2022/HSST ngày 26 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo:

LƯƠNG THỊ C, Sinh năm: 1974 tại tỉnh Bình Định.

Nơi ĐKTT và chổ ở: Số A chung cư B, đường M thuộc khu phố 6, phường H, thành phố T, thành phố H; nghề nghiệp: Buôn bán ; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lương Văn P(đã chết) và bà Nguyễn Thị L(già yếu). Có chồng đã ly hôn, có 03 con.

Tiền án: không; Tiền sự: Không.

Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Bị hại:

Phan Quang T, sinh năm: 1980. Trú tại: khu phố 4, phường Đ, thành phố P(vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 06 giờ ngày 11/12/2021, bị cáo LƯƠNG THỊ C (sinh năm: 1974, trú tại: Số A chung cư B, đường M thuộc khu phố 6, phường H, thành phố T, thành phố H) đặt xe ô tô trên ứng dụng điện thoại để ra chợ P, thành phố P, tỉnh Bình Thuận lấy tiền nợ của khách mua hàng trước đó. Khoảng 15 phút sau, Vũ Mạnh T (sinh năm: 1985, trú tại:

134/9 đường M thuộc khu phố 5, phường T, thành phố T, thành phố H) – là tài xế xe taxi công nghệ điều khiển xe ô tô taxi biển số 50E – 012.39 đến đón bị cáo C, bị cáo nói với T chở đến P có công việc thì anh T đồng ý. Đến khoảng 10 giờ 15 phút cùng ngày, anh T chở bị cáo đến khu vực công viên gần cầu Lê Hồng Phong, thành phố P thì bị cáo xuống xe rồi xin số điện thoại của anh T đồng thời nói anh T tìm chỗ đậu xe chờ chở C về lại thành phố H. Sau đó bị cáo đi bộ vào trong chợ P tìm một người tên L để lấy tiền nợ nhưng không tìm được nên đi về. Trên đường đi về, bị cáo đi vào tiệm vàng TKT, địa chỉ số 31 đường N thuộc khu phố 2, phường Đ, thành phố P do anh Phan Quang T (sinh năm:

1980, trú tại: khu phố 4, phường Đ, thành phố P) làm chủ để mua vàng. Khi vào trong tiệm bị cáo C gặp chị Trương Thị P (sinh năm: 1998, trú tại: khu phố 8, phường Đ, thành phố P) là nhân viên bán hàng của tiệm vàng, bị cáo C yêu cầu chị P lấy cho bị cáo 01 sợi dây chuyền để thử. Cùng lúc này, bị cáo thấy trên mặt tủ kính trưng bày vàng có 01 chiếc hộp màu đỏ, bên trong hộp có 01 sợi dây chuyền dạng mắt xích. bị cáo vừa đeo thử sợi dây chuyền chị P đưa vừa quan sát xung quanh, thấy tiệm đang có nhiều khách đến mua vàng, nhân viên bán hàng không chú ý đến sợi dây chuyền nói trên nên C đã nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản bán để lấy tiền tiêu xài cá nhân. Bị cáo dùng tay phải của mình lén lút lấy sợi dây chuyền để trên mặt tủ trưng bày vàng sau đó chuyển qua tay trái rồi nắm chặt trong lòng bàn tay cùng với cùng với chiếc nón kết nhằm mục đích dùng chiếc nón che sợi dây chuyền vừa lấy trộm tránh bị phát hiện. Tiếp đó, bị cáo C tháo sợ dây chuyền đang thử trả lại cho chị P và nói mua sợi dây chuyền này nhưng do chưa đủ tiền nên đặt cọc lại 2.000.000 đồng, C sẽ ra ngân hàng rút tiền rồi quay lại thì chị P đồng ý và nhận 2.000.000 đồng của bị cáo. Sau đó, bị cáo rời khỏi tiệm vàng rồi đi bộ đến chỗ anh Vũ Mạnh T đang đậu xe yêu cầu anh T chở bị cáo về lại thành phố H. Sau khi về đến nhà, khoảng 16 giờ cùng ngày, bị cáo đem sợi dây chuyền vàng vừa trộm cắp được ở P bán cho bà Trần Thúy L(sinh năm 1965) là chủ của tiệm vàng MT ở khu phố 3, phường H, thành phố T, thành phố H được số tiền 93.800.000 đồng, bị cáo C đã mang toàn bộ số tiền trên về cất dấu tại nhà.

Khoảng 13 giờ cùng ngày thì anh Phan Quang T phát hiện tiệm vàng bị mất một sợi dây chuyền vàng nên đã xem lại camera an ninh trong tiệm thì phát hiện trước đó vào lúc 10 giờ 52 phút có một người phụ nữ lạ mặt đến tiệm của anh mua vàng rồi lén lút lấy trộm 01 sợi dây chuyền vàng nên anh T đã đến Công an phường Đ, thành phố P trình báo sự việc.

Sau khi điều tra xác minh, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố P đã mời bị cáo C đến trụ sở Công an phường H, thành phố T, thành phố H làm việc. Tại đây, bị cáo C đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đồng thời đã tự nguyện đến tiệm vàng MT chuộc lại sợi dây chuyền và giao nộp cho Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố P.

Vật chứng của vụ án:

+ 01 sợi dây chuyền dạng mắt xích bằng kim loại màu vàng, có chiều dài 62,5 cm, trên khóa dây chuyền có in ký hiệu “K*L*610 TG”; 01 nón kết màu trắng, bên trong vành nón có ký hiệu “Non Son”; 01 áo khoác màu hồng, có nón, mặt bên trong áo phía trên cổ có in chữ và số màu đen “F5”; 01 quần dài màu đen có chấm tròn trắng; 01 áo thun chấm trắng, áo màu đen loại áo ba lỗ (các tài sản, vật chứng trên do LƯƠNG THỊ C giao nộp).

+ 01 USB hiệu Kingston màu trắng ghi lại hình ảnh LƯƠNG THỊ C lấy trộm tài sản tại tiệm vàng TKT ; 01 tờ hóa đơn mua bán vàng, ký hiệu B20211228-26, ghi ngày 28/02/2021; Tiền Việt Nam: 2.000.000 đồng (các tài liệu, tài sản trên do anh Phan Quang T giao nộp).

Tại kết quả thử nghiệm ngày 18/01/2022 của Công ty TNHH MTV Giám định PNJ Phòng kiểm định vàng bạc và hợp kim tại TP H kết luận:

- Tên mẫu vật: Dây chuyền kim loại, dạng mắt xích, màu vàng, dài 62,5 cm, trên dây chuyền có in ký hiệu “K*L*610 TG”;

- Khối lượng (chỉ): 30,60 - Hàm Lượng vàng (%Au): 61,55 Tại Bản kết luận định giá tài sản số 26/KL-HĐĐG ngày 22/02/2022 của Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự của Thành phố P kết luận:

- Tên tài sản: 01 sợi dây chuyền bằng kim loại dạng mắt xích, màu vàng, dài 62,5 cm, trọng lượng 30,6 chỉ; trên khóa dây chuyền có in ký hiệu “K*L*610TG”.

- Tổng giá trị tài sản: 97.277.400 đồng.

Về dân sự: Bị hại Phan Quang T đã nhận lại tài sản là 01 sợi dây chuyền bằng kim loại dạng mắt xích, màu vàng, dài 62,5 cm, trên khóa dây chuyền có in ký hiệu “K*L*610TG” do Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố P giao trả, ngoài ra không có yêu cầu bồi thường gì khác đối với bị cáo C.

Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo C không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận định giá của Hội đồng định giá tài sản nêu trên.

Tại phiên tòa bị cáo LƯƠNG THỊ C đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Bản cáo trạng số 57/CT – VKS PT - HS ngày 18 tháng 5 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, tỉnh Bình Thuận đã truy tố bị cáo LƯƠNG THỊ C phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự;

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo LƯƠNG THỊ C đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo biết việc trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo đã lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác, bất chấp hậu quả.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố P giữ quyền công tố luận tội và tranh luận:

sản”.

Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: bị cáo LƯƠNG THỊ C phạm tội “Trộm cắp tài Đề nghị áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo LƯƠNG THỊ C với mức hình phạt từ 12 tháng đến 18 tháng tù.

Về xử lý vật chứng:

Đề nghị áp dụng quy định tại điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy đối với 01 nón kết màu trắng, 01 áo khoác màu hồng, 01 quần dài màu đen có chấm tròn trắng; 01 áo thun là trang phục C mặc khi thực hiện hành vi phạm tội.

Đề nghị áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự trả lại cho bị cáo số tiền Việt Nam 2.000.000 đồng là tiền bị cáo C đặt cọc để mua sợi dây chuyền khác của tiệm vàng, không liên quan đến tội phạm.

Về trách nhiệm bồi thường dân sự:

Bị hại Phan Quang T không yêu cầu bị cáo bồi thường gì về dân sự nên không buộc bị cáo phải bồi thường.

Bị cáo C không trình bày lời bào chữa, không tranh luận gì với Kiểm sát viên đồng thời thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như lời kết tội của Kiểm sát viên.

Lời nói sau cùng của bị cáo LƯƠNG THỊ C: sau khi phạm tội bị cáo rất ân hận về hành vi đã thực hiện mong Hội đồng xét xử khoan hồng giảm nhẹ hình phạt, bị cáo hứa sẽ học tập rèn luyện để trở thành người có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố P, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ buộc tội các bị cáo: Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội. Xét lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra Công an thành phố P, cũng như lời khai của bị hại và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để kết luận:

Vào lúc 10 giờ 52 phút ngày 11/12/2021, trong lúc mua vàng tại tiệm vàng TKT tại địa chỉ số 31 đường N thuộc khu phố 2, phường Đ, thành phố P do anh Phan Quang T làm chủ, bị cáo LƯƠNG THỊ C đã có hành vi lén lút lấy trộm 01 sợi dây chuyền vàng trị giá 97.277.400 đồng. Sau đó, bị cáo C đem bán tài sản trộm cắp cho bà Trần Thúy L chủ tiệm vàng MT ở khu phố 3, phường H, thành phố T, thành phố H được 93.800.000 đồng thì bị phát hiện.

Bị cáo C chiếm đoạt tài sản có giá trị 97.277.400 đồng thuộc trường hợp “Tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ trên 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng”, Tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ trên 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng”, là tình tiết định khung hình phạt quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự .

Do vậy hành vi của LƯƠNG THỊ C đã thực hiện như trên đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt đối với bị cáo được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P đã truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo cho thấy: LƯƠNG THỊ C vì lòng tham nhất thời nên đã thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác, hành vi này là nguy hiểm cho xã hội không những đã xâm phạm đến quan hệ về quyền sở hữu hợp pháp của công dân mà còn gây mất trật tự trị an địa phương. Vì vậy cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc, tương xứng với tính chất và mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội và cũng là để giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.

Tuy nhiên khi quyết định hình phạt, xét thấy tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, sau khi xảy ra sự việc bị cáo thật sự ăn năn hối cải, đã tự nguyện giao nộp tại tài sản trộm cắp, bị hại xin bãi nại giảm nhẹ hình phạt nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Mặt khác nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; bị cáo đã ly hôn chồng đang nuôi con nhỏ; bị cáo có hoàn cảnh khó khăn và đang bị bệnh phải điều trị, sẽ được Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt, tạo điều kiện cho bị cáo an tâm rèn luyện tu dưỡng sớm trở thành người có ích cho xã hội.

Bị cáo có hai tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự nên được áp dụng quy định tại Điều 54 của Bộ luật hình sự quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt khi quyết định hình phạt đối với bị cáo, tạo điều kiện cho bị cáo an tâm rèn luyện tu dưỡng sớm trở trở về hòa nhập với xã hội.

[4] Về trách nhiệm bồi thường dân sự:

Bị hại không có yêu cầu bồi thường về phần dân sự nên Hội đồng xét xử không xét.

[5] Về xử lý vật chứng:

Đối với vật chứng là 01 sợi dây chuyền bằng kim loại dạng mắt xích, màu vàng, dài 62,5 cm, trên khóa dây chuyền có in ký hiệu “K*L*610TG” , Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là anh Phan Quang T, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với 01 nón kết màu trắng, 01 áo khoác màu hồng, 01 quần dài màu đen có chấm tròn trắng; 01 áo thun là trang phục bị cáo C mặc khi thực hiện hành vi phạm tội, Do vậy cần áp dụng quy định tại điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự quyết định tịch thu tiêu hủy.

Đối với số tiền Việt Nam 2.000.000 đồng là tiền bị cáo C đặt cọc để mua sợi dây chuyền khác của tiệm vàng, không liên quan đến tội phạm. Do vậy áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự quyết địnhtrả lại cho bị cáo.

[6] Về án phí : Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật Hình.

Tuyên bố: Bị cáo LƯƠNG THỊ C phạm tội “ Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo LƯƠNG THỊ C 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Về xử lý vật chứng:

Áp dụng khoản 1 và điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên:

- Tch thu tiêu hủy 01 nón kết màu trắng, 01 áo khoác màu hồng, 01 quần dài màu đen có chấm tròn trắng; 01 áo thun là trang phục bị cáo C mặc khi thực hiện hành vi phạm tội.

- Trả lại số tiền 2.000.000 đồng cho bị cáo LƯƠNG THỊ C.

Các vật chứng ghi trên hiện do Chi cục thi hành án dân sự thành phố P quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 86 ngày 02/6/2022; giấy nộp tiền vào tài khoản số 3949.0.1054627 ngày 30/5/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố P tại kho bạc nhà nước tỉnh Bình thuận.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án và danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết, tuyên buộc bị cáo LƯƠNG THỊ C phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 18/7/2022). Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

146
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 100/2022/HSST

Số hiệu:100/2022/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: đang cập nhật
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về