Bản án về tội trộm cắp tài sản số 09/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẾN CẦU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 09/2022/HS-ST NGÀY 26/01/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 01 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 02/HS-ST ngày 11 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2022/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 01 năm 2022 đối với bị cáo:

Đào Văn T, sinh năm 1996 tại tỉnh Tây Ninh; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và nơi cư trú hiện nay: ấp Long P, xã Long V, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: không có; trình độ học vấn: 0/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Văn X (đã chết) và bà Đào Thị P; vợ, con: chưa có; nhân thân: Ngày 24/4/2013, bị Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh ra Bản án số 57/2013/HSST xử phạt 05 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành án xong. Ngày 02/12/2013 bị Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh ra Bản án số 13/2013/HSST xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành án xong ngày 03/02/2016 (phạm tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng khi từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi); tiền án: Ngày 27/6/2017 của Tòa án nhân dân huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh ra Bản án số 46/2017/HSST xử phạt 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”; tiền sự: không có; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 25/11/2021 đến ngày 04/12/2021 chuyển tạm giam đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Bị hại:

1. Bà Lê Thị P, sinh năm 1978.

Nơi cư trú: ấp Cao S, xã Long G, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh, có đơn xin vắng mặt.

2. Anh Phạm Văn T, sinh năm 1990.

Nơi cư trú: ấp Long P, xã Long K, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh, có đơn xin vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 20 phút ngày 25/11/2021, tại khu vực ấp Long Phú, xã Long Khánh, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh, Công an huyện Bến Cầu phối hợp Công an xã Long Khánh, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh phát hiện Đào Văn T đang cạy ổ khóa xe để trộm xe mô tô biển số 70C1-158.28 của anh Phạm Văn T, sinh năm 1990 ngụ ấp Long P, xã Long K, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh nên bắt quả tang, tạm giữ người và vật chứng để làm rõ.

Quá trình điều tra xác định: Do muốn có tiền tiêu xài nên khoảng 04 giờ 00 phút ngày 25/11/2021, Đào Văn T đi bộ từ nhà đến khu vực các xã Long Chữ, Long Giang, Long Khánh thuộc huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh tìm tài sản của người dân để sơ hở lấy trộm. Đến khoảng 10 giờ 20 phút ngày 25/11/2021, khi đi đến khu vực ấp Long Phú, xã Long Khánh, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh phát hiện xe mô tô biển số 70C1-158.28 của anh Phạm Văn Thuận dựng trước miểu ông Tà không người trông giữ, không khóa cổ xe, T dùng cây đoản bằng kim loại lén lút cạy ổ khóa xe để trộm xe, khi đang cạy ổ khóa xe thì bị phát hiện, bắt giữ.

Ngoài lần bị bắt quả tang, T còn khai nhận khoảng 01 giờ 00 phút cùng ngày, tại ấp Cao Su, xã Long Giang, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh, T lén lút lấy 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6s của chị Lê Thị P đang để sạc pin trên đầu giường ngủ trong nhà.

Kết luận định giá tài sản số: 28/KL-HĐĐGTTHS ngày 30/11/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh kết luận: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda, số loại: Wave; màu sơn: Xám- đen-bạc; biển số 70C1-158.28; dung tích xi lanh 97 cm3; số khung: 1212DY701748, số máy: HC12E5701837 (đã qua sử dụng) thời điểm ngày 25/11/2021 trị giá 12.750.000 đồng. 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s, màu hồng; số máy MN122J/A, số sê ri: FK1Y63RWHFLW, số Imel:

356135096694496 (đã qua sử dụng) thời điểm ngày 25/11/2021 trị giá 2.750.000 đồng. Tổng tài sản trị giá 15.500.000 đồng.

Kết quả thu giữ và xử lý vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bến Cầu đã trả lại cho anh Phạm Văn T 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda, số loại: Wave; màu sơn: Xám-đen-bạc; biển số 70C1-158.28; dung tích xi lanh 97 cm3; số khung: 1212DY701748, số máy: HC12E5701837 (đã qua sử dụng). Trả lại cho chị Lê Thị P 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s, màu hồng; số máy MN122J/A, số sê ri: FK1Y63RWHFLW, số Imel:

356135096694496 (đã qua sử dụng).

Vật chứng còn tạm giữ: 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu đen, số Imel: 354198109835227, bên trong có sim số 0344503644; 01 (một) đoạn kim loại dài 6cm có một đầu hình lục giác, một đầu dẹp; 01(một) đoạn kim loại dài 15cm có hai đầu tròn rỗng hình lục giác ống 8 cong dạng chữ L, đầu cong L dài 3cm; 01 (một) cây kiềm bằng kim loại có tay cầm bằng nhựa màu đỏ, đen; 01 (một) đèn pin đội đầu; 01 (một) nón kết màu đen.

Kê biên tài sản: Bị cáo T không có tài sản nên Công an huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh không kê biên.

Về bồi thường thiệt hại: Anh Phạm Văn T, bà Lê Thị P đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường gì khác.

Tại bản cáo trạng số: 03/CT-VKSBC ngày 11 tháng 01 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu đã truy tố Đào Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo qui định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Đào Văn T đã khai nhận hành vi phạm tội như cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm r, s khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đào Văn T từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù đến 02(hai) năm tù, miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, xử lý vật chứng theo qui định pháp luật.

- Bị hại bà Lê Thị P vắng mặt, nhưng có lời khai: Ngày 25/11/2021 thì phát hiện mất điện thoại chưa kịp trình báo thì Công an đến nhà thông báo bắt được đối tượng Đào Văn T trộm cắp tài sản, hiện điện thoại bà đã nhận lại xong và không yêu cầu bồi thường gì khác.

- Bị hại anh Phạm Văn T vắng mặt, nhưng có lời khai: Vào khoảng 09 giờ 40 phút ngày 25/11/2021 anh có điều khiển xe mô tô Ware biển số 70C1-158.28 do anh chủ sở hữu chở vợ Đặng Thị Ngọc H đến ruộng và dựng xe trước miếu ông Tà Lục Trà Som ngụ ấp Long P, xã Long K, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh. Đến khoảng 10 giờ 20 phút cùng ngày thì phát hiện Đào Văn T đang lén lút bẻ khóa xe mô tô Ware biển số 70C1-158.28 do anh làm chủ và truy hô bắt, trình báo Công an. Hiện xe anh đã nhận lại tài sản xong nên không yêu cầu bồi thường gì khác.

Bị cáo Đào Văn T thống nhất với luận tội của Kiểm sát viên, không có ý kiến tranh luận, bào chữa.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bến Cầu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đánh giá về hành vi và định tội danh: Do muốn có tiền tiêu xài, khoảng 01 giờ 00 phút ngày 25/11/2021 tại ấp Cao Su, xã Long Giang, huyện Bến Cầu, Đào Văn T lén lút lấy điện thoại di động hiệu Iphone 6s trị giá 2.750.000 đồng của chị Lê Thị P. Đến 10 giờ 20 phút cùng ngày tại khu vực ấp Long Phú, xã Long Khánh, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh, Đào Văn T tiếp tục đang lén lút bẻ khóa xe mô tô biển số 70C1-158.28 trị giá 12.750.000 đồng của anh Phạm Văn T thì bị phát hiện bắt giữ. Tổng trị giá tài sản mà T chiếm đoạt là 15.500.000 đồng. Do đó, hành vi của Đào Văn T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự như luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ.

[3] Đánh giá về mức độ hành vi phạm tội: Vụ án mang tính chất ít nghiêm trọng, bị cáo T là người đã thành niên và có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo thực hiện hành vi do cố ý, bị Tòa án xét xử 03 lần về tội “Trộm cắp tài sản”. Trong đó, 02 lần phạm tội lúc chưa thành niên và 01 lần phạm tội đã thành niên, chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này là tái phạm. Mặc dù bị cáo đã bị xử lý bằng hình thức phạt tù nhiều lần nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học tu dưỡng bản thân, ăn năng hối cải. Với bản chất lười lao động, muốn có nhiều tiền để thỏa mãn nhu cầu cá nhân nên đã lén lút thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Hành vi của bị cáo T là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Do đó, cần phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc để giáo dục, răng đe bị cáo và phòng ngừa tội phạm.

[4] Khi quyết định hình phạt, có xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

+ Tình tiết tăng nặng: Bị can Đào Văn T đã bị 03 lần kết án tại trong đó: Bản án số 57/2013/HSST ngày 24/4/2013, bị Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh xử phạt 05 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành án xong. Ngày 02/12/2013 bị Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh ra Bản án số 13/2013/HSST xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành án xong ngày 03/02/2016 (phạm tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng khi từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi) nên không xem là có án tích. Ngày 27/6/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh ra Bản án số 46/2017/HSST xử phạt 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, nên lần này chưa được xóa án tích mà tái phạm; trong vụ án này bị cáo đã thực hiện hành vi trộm cấp 02 lần đủ yếu tố cấu thành tội phạm độc lập, nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm g, h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

+ Tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải, tự khai ra các lần phạm tội trước đó là những tình tiết được quy định tại điểm r, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[5] Xét đề nghị của kiểm sát viên tham gia phiên tòa đề nghị áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo T là có căn cứ nên chấp nhận. Bởi lẽ, bị cáo T đã bị 03 lần kết án về tội trộm cắp tài sản, đã bị xử lý bằng hình thức phạt tù nhiều lần nhưng bị cáo không ăn năng hối hận, với bản chất lười lao động muốn có nhiều tiền để thỏa mãn nhu cầu cá nhân nên tiếp tục tái phạm. Do vậy, cần áp dụng hình phạt tù để cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian, để cải tạo giáo dục cho bị cáo trở thành công dân biết chấp hành pháp luật.

[6] Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, xét thấy:

- Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu đen, số Imel:

354198109835227, bên trong có sim số 0344503644 của bị cáo T, không liên quan đến hành vi phạm tội, nên trả lại.

- Đối với 01 (một) đoạn kim loại dài 6cm có một đầu hình lục giác, một đầu dẹp; 01(một) đoạn kim loại dài 15cm có hai đầu tròn rỗng hình lục giác ống 8 cong dạng chữ L, đầu cong L dài 3cm; 01 (một) cây kiềm bằng kim loại có tay cầm bằng nhựa màu đỏ, đen; 01 (một) đèn pin đội đầu; 01 (một) nón kết màu đen là công cụ phạm tội, không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[7] Về bồi thường thiệt hại: Anh Phạm Văn T, bà Lê Thị P đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường gì khác.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm r, s khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: bị cáo Đào Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Xử phạt: bị cáo Đào Văn T 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 25 tháng 11 năm 2021.

2. Về trách nhiệm Dân sự: Anh Phạm Văn T, bà Lê Thị P đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường gì khác.

3. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Trả lại cho bị cáo T: 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu đen, số Imel: 354198109835227, bên trong có sim số 0344503644 - Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) đoạn kim loại dài 6cm có một đầu hình lục giác, một đầu dẹp; 01(một) đoạn kim loại dài 15cm có hai đầu tròn rỗng hình lục giác ống 8 cong dạng chữ L, đầu cong L dài 3cm; 01 (một) cây kiềm bằng kim loại có tay cầm bằng nhựa màu đỏ, đen; 01 (một) đèn pin đội đầu; 01 (một) nón kết màu đen.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 13 tháng 01 năm 2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh).

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án: bị cáo Đào Văn T phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn) đồng.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo T được quyền kháng cáo theo trình tự thủ tục phúc thẩm lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bà P, anh Tvắng mặt thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp pháp.

Trường hợp Bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

314
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 09/2022/HS-ST

Số hiệu:09/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bến Cầu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về