Bản án về tội trộm cắp tài sản số 09/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC TRÀ MY, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 09/2021/HS-ST NGÀY 15/04/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 15 tháng 4 năm 2021, tại Tòa án nhân dân huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 05/2021/TLST-HS ngày 26 tháng 02 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2021/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 3 năm 2021 đối với:

Bị cáo Võ Phùng Văn L, sinh ngày 09/11/1994 tại huyện B, tỉnh Q; Nơi đăng ký thường trú và chỗ ở hiện nay: tổ Đ, thị trấn T, huyện B, tỉnh Q; Nghề nghiệp: lao động phổ thông; Trình độ học vấn: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Võ Văn L, sinh năm: 1952 và bà Phùng Thị H, sinh năm: 1963; bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/01/2021. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại:

+ Ông Võ Bá Ch, sinh năm: 1992. Vắng mặt Địa chỉ: tổ Đ, thị trấn T, huyện B, tỉnh Q.

+ Ông Đặng Phi Trường, sinh năm: 1986. Vắng mặt. Địa chỉ: tổ Đ, thị trấn T, huyện B, tỉnh Q.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Ông Trần Anh S, sinh 1994. Vắng mặt. Địa chỉ: tổ M, thị trấn T, huyện B, tỉnh Q.

+ Ông Trần Đình V, sinh 1990. Vắng mặt. Địa chỉ: tổ T, thị trấn T, huyện B, tỉnh Q.

+ Ông Trần Văn L, sinh 1993. Vắng mặt.

Địa chỉ: tổ M, thị trấn T, huyện B, tỉnh Q.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vụ thứ nhất: Vào khoảng 15 giờ chiều ngày 17 tháng 9 năm 2020, vì cần tiền phục vụ cho nhu cầu cá nhân nên bị cáo Võ Phùng Văn L nảy sinh ý định trộm cắp tài sản có giá trị đem đi bán. Vì vậy, bị cáo đi qua nhà anh Võ Bá Ch, phát hiện cửa sổ bên hông nhà anh Ch mở hé nên bị cáo dùng tay kéo thì cửa bung ra. Bị cáo nhìn vào bên trong, thấy có 01 máy bơm hơi màu đỏ và 01 máy bơm nước màu xanh đã cũ. Bị cáo trèo qua cửa sổ rồi vào bên trong căn phòng. Tại đây, bị cáo còn phát hiện một bao tải màu trắng và 01 cuộn dây điện màu đỏ nên bị cáo lấy bao tải rồi bỏ dây điện và dây bơm hơi vào trong bao. Bị cáo lần lượt lấy máy bơm hơi, máy bơm nước và bao tải đựng dây điện và dây bơm hơi bỏ ra ngoài cửa sổ rồi trèo ra ngoài. Bị cáo đem giấu tất cả tài sản trộm được tại bụi cỏ, cạnh gốc cây cách nhà anh Ch khoảng 50m rồi đi về nhà. Đến khoảng 18 giờ cùng ngày, bị cáo gọi điện cho Trần Anh S là người chạy xe ba gát để nhờ S bán giúp máy bơm hơi. S có hỏi nguồn gốc máy bơm hơi thì bị cáo trả lời: “Máy bơm hơi của thằng em do làm ăn thua lỗ nên muốn bán”. Nghe vậy, S đã gọi điện cho Trần Đình V để hỏi V về việc bán máy bơm hơi thì V bảo Sĩ chở máy bơm hơi lên để V xem thử. Đến sáng ngày 18/9/2020 bị cáo mượn xe của anh Võ Văn Đ (hiện nay đã chết do tai nạn điện giật) để tìm nơi bán máy bơm nước. Bị cáo đi đến tiệm điện cơ của anh Trần Văn L nói là máy bơm của gia đình không dùng nữa nên anh L đã mua với giá 70.000 đồng. Sau khi bán được máy bơm nước, bị cáo tiếp tục tìm anh S để hỏi anh S về việc bán máy bơm hơi. Khi gặp S tại quán cà phê Hoa Giấy, S bảo để Sĩ dùng xe ba gát chở bị cáo về nhà rồi chở máy bơm hơi đến bán cho anh V nhưng bị cáo không đồng ý mà tự chạy xe máy về nhà chở máy bơm hơi qua chỗ S. S dùng xe ba gát chở bị cáo, máy bơm hơi cùng bao tải đựng dây diện và ống bơm hơi đến nhà anh V. Tại đây, anh V có hỏi bị cáo về nguồn gốc máy bơm hơi thì bị cáo nói máy bơm hơi là của em bị cáo không dùng nữa nên bán lại. Hai bên thống nhất mua bán với giá 1.000.000 đồng. Sau khi nhận được tiền, bị cáo có đưa cho S số tiền 200.000 đồng, số tiền còn lại bị cáo dùng tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ hai: Sau khi tiêu xài hết số tiền có được từ việc bán tài sản trộm cắp nhà anh Ch. Đến khoảng 23 giờ ngày 19/9/2020 trên đường bị cáo đi chơi về và có đi ngang qua tiệm quảng cáo Thời Đại thuộc tổ Đ, thị trấn T do anh Đặng Phi Tr làm chủ. Tại đây, bị cáo phát hiện trước tiệm có nhiều thanh sắt chưa sử dụng nằm sát bên đường. Khi về nhà, bị cáo nảy sinh ý định trộm cắp nên đến khoảng 01 giờ 30 phút ngày 20/9/2020 bị cáo đi bộ đến nơi để sắt và bắt đầu vác sắt đi cất giấu. Bị cáo đi theo đường Phạm Ngọc Thạch, đi ra hướng đường Kim Đồng, thị trấn T đến đoạn đường đất đi vào Công ty Thông Đạt thuộc tổ Đ, thị trấn T rồi cất giấu tại bụi cỏ ven đường. Ban đầu, mỗi lần bị cáo vác khoảng 2 cây sắt, sau đó bị cáo tăng lên 03 đến 04 cây một lần. Vác được 20 cây sắt thì trời cũng đã gần sáng, bị cáo không vác nữa và đi về nhà.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 28/KL-HĐĐGTS ngày 09/10/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam đã kết luận:

- 01 máy bơm hơi màu trắng, đỏ, đen, loại 2.5 mã lực, được mua mới vào tháng 11/2019 đã qua sử dụng có giá là 950.000 đ (Chín trăm năm mươi ngàn đồng); 01 máy bơm nước màu xanh hiệu Bảo Long, loại 1.5 mã lực được mua mới vào năm 2018 đã qua sử dụng có giá 100.000 đ (Một trăm ngàn đồng); 01 cuộn dây điện màu đỏ, loại 2 x 1.5m, dài 30m được mua mới vào tháng 9/2019 đã qua sử dụng có giá 50.000 đ (Năm mươi ngàn đồng). Tổng giá trị trộm cắp nhà anh Võ Bá Chung là 1.100.000 đồng (Một triệu một trăm ngàn đồng) - 01 thanh sắt V3 dài 6m, được mua mới vào ngày 15/9/2020 chưa qua sử dụng có giá 100.000 đ (Một trăm ngàn đồng); 19 thanh sắt V4 mỗi thanh sắt dài 6m được mua mới vào ngày 15/9/2020 chưa qua sử dụng có giá 2.755.000 đ (Hai triệu bảy trăm năm mươi lăm ngàn đồng). Tổng giá trị trộm cắp tại tiệm quảng cáo Thời Đại là 2.855.000 đ (Hai triệu tám trăm năm mươi lăm ngàn đồng) Bản cáo trạng số: 06/CT-VKS-BTM ngày 23 tháng 02 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam truy tố bị cáo Võ Phùng Văn L về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên nội dung truy tố theo bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 điều 173; điểm b, h, i, s khoản 1 điều 51của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Võ Phùng Văn L mức án từ 06 đến 09 tháng tù. Thời gian thụ hình tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 13/01/2021).

Về trách nhiệm dân sự: trong quá trình điều tra ông Trần Đình V và ông Trần Văn L có đơn yêu cầu bị cáo Võ Phùng Văn L bồi thường tổng số tiền 1.070.000 đồng (Một triệu không trăm bảy mươi ngàn đồng) là số tiền đã mua tài sản mà bị cáo đem bán. Hiện nay gia đình bị cáo đã bồi thường xong số tiền trên.

Bị hại ông Đặng Phi Tr, ông Võ Bá Ch đã nhận lại toàn bộ tài sản và có đơn không yêu cầu bồi thường. Tại phiên tòa không ai có ý kiến gì thêm nên không xem xét.

Về xử lý vật chứng: đối với các tài sản bị trộm cắp Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Bắc Trà My đã trao trả đầy đủ cho bị hại là đúng quy định của pháp luật nên không xem xét.

Bị cáo không có gì để nói trong lời nói lời sau cùng trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án. Mặc dù đã được Thẩm phán chủ tọa phiên tòa giải thích.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Vào khoảng 15 giờ ngày 17 tháng 9 năm 2020 lợi dụng lúc gia đình anh Võ Bá Chung đi vắng không có ai quản lý tài sản. Bị cáo Võ Phùng Văn L đã lén lút vào nhà của anh Ch và trộm cắp tài sản của gia đình anh Ch với tổng giá trị là 1.100.000 đồng. Tiếp theo vào khoảng 01 giờ 30 phút ngày 20 tháng 9 năm 2020, bị cáo tiếp tục trộm cắp tài sản của anh Đặng Phi Tr với tổng giá trị là 2.855.000 đồng. Bị cáo Võ Phùng Văn L đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản một cách liên tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian. Do đó, tổng giá trị tài sản mà bị cáo đã trộm cắp là 3.955.000 đồng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Đối chiếu và thẩm tra phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được các cơ quan tiến hành tố tụng thu thập. Vì vậy, Hội đồng xét xử sơ thẩm có đủ cơ sở kết luận bị cáo Võ Phùng Văn L phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 như cáo trạng số 06/CT-VKS-BTM ngày 23 tháng 02 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam và quan điểm luận tội của Kiểm sát viên tại phiên toà là có căn cứ đúng người, đúng tội.

[2] Xét tính chất của vụ án, mức độ phạm tội của bị cáo thì thấy: Bị cáo Võ Phùng Văn L là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Bản thân bị cáo là người có sức khỏe, nhưng không lo làm ăn lại sử dụng chất kích thích dạng “Cỏ” nên để có tiền phục vụ cho nhu cầu cá nhân bị cáo đã lựa chọn việc trộm cắp tài sản của người khác. Từ ngày 17/9 đến rạng sáng ngày 20/9 bị cáo liên tiếp thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản. Vụ trộm cắp thứ nhất, bị cáo thực hiện lúc 15 giờ chiều khi trời còn sáng, mọi người xung quanh còn đang sinh hoạt bình thường và chỉ 03 ngày sau bị cáo đã tiếp tục thực hiện vụ trộm cắp thứ hai. Hành vi của bị cáo thể hiện sự bất chấp, liều lĩnh, coi thường pháp luật gây nguy hiểm cho xã hội, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, gây nên tâm lý hoang mang, lo sợ trong quần chúng nhân dân. Vì vậy, cần phải xử phạt bị cáo mức án tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội mà bị cáo đã gây ra thì mới có tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[3] Bị cáo Võ Phùng Văn L không có tình tiết tăng nặng. Tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; gia đình bị cáo đã bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do bị cáo gây ra; bị cáo chưa có tiền án, tiền sự phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiệm trọng nên Hội đồng xét xử sơ thẩm áp dụng điểm b, h, i, s khoản 1 điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để xem xét giảm nhẹ khi quyết định hình phạt đối với bị cáo, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[4] Đối với ông Trần Văn L là người mua máy bơm nước do bị cáo trộm cắp. Tại thời điểm mua, ông L không biết đó là tài sản có được do phạm tội nên không xem xét là phù hợp.

Đối với ông Trần Đình V là người mua máy bơm hơi do bị cáo trộm cắp. Tại thời điểm mua ông V không biết đó là tài sản có được do phạm tội nên không xem xét là phù hợp.

Đối với ông Trần Anh S là người chạy xe lôi đã giới thiệu cho bị cáo đem máy bơm hơi đến bán cho anh Trần Đình V. Tại thời điểm giới thiệu, S không biết đó là tài sản do bị cáo trộm cắp nên không xem xét là phù hợp.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Hiện nay gia đình bị cáo đã bồi thường toàn bộ thiệt hại cho ông Trần Văn L, ông Trần Đình V. Bị hại ông Đặng Phi Tr, ông Võ Bá Ch đã nhận lại toàn bộ tài sản và có đơn không yêu cầu bồi thường. Tại phiên tòa không ai có ý kiến gì thêm nên không xem xét.

[6] Về xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Bắc Trà My đã trao trả toàn bộ tài sản bị trộm cắp cho bị hại theo đúng quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí: bị cáo Võ Phùng Văn L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Trà My tỉnh Quảng Nam, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 điều 173; điểm b, h, i, s khoản1 điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Tuyên bố bị cáo Võ Phùng Văn L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt Võ Phùng Văn L 09 (Chín) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 13/01/2021).

Về án phí: áp dụng khoản 2 điều 135, khoản 2 điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Võ Phùng Văn L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

Bị cáo, bị hại có mặt có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 15/4/2021). Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 09/2021/HS-ST

Số hiệu:09/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bắc Trà My - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về