Bản án về tội trộm cắp tài sản số 08/2018/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG HINH, TỈNH PHÚ YÊN

BẢN ÁN 08/2018/HS-ST NGÀY 21/08/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21-8-2018 tại Tòa án nhân dân (TAND) huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 04/2018/TLST-HS ngày 29-5-2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2018/QĐXXST-HS ngày 29-6-2018; quyết định hoãn phiên tòa số 05/2018/HSST-QĐ ngày 24-7-2018; quyết định thay đổi thư ký số 02/2018/QĐ-TA ngày 09-8-2018 và quyết định thay đổi Hội thẩm số 01/2018/QĐ-TA ngày 17-8-2018 đối với bị cáo:

Linh Văn X (tên gọi khác: Đen), sinh năm 1985 tại Lạng Sơn; nơi cư trú: Thôn T, xã E, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa (học vấn): Lớp 02/12; dân tộc: Nùng; con ông Linh Văn N1, sinh năm 1954 và bà Nông Thị N2 (chết);

Tiền án: Có 3 tiền án:

Ngày 27-3-2012, bị TAND tỉnh Phú Yên xét xử phúc thẩm áp dụng khoản 1 Điều 140 BLHS xử phạt 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội: Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Chấp hành xong ngày 14-3-2013.

Ngày 31-12-2015, bị TAND huyện Ea Ka, tỉnh Đăk Lăk xét xử sơ thẩm áp dụng khoản 1 Điều 314 BLHS xử phạt 01 (Một) năm tù về tội: Không tố giác tội phạm. Chấp hành xong ngày 23-8-2016.

Ngày 20-9-2017, bị TAND huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên xét xử sơ thẩm áp dụng khoản 2 Điều 138 BLHS xử phạt 02 (Hai) năm tù về tội: Trộm cắp tài sản.

Nhân thân: Ngày 20-3-2001, bị Công an huyện Sông Hinh xử phạt hành chính với hình thức Cảnh cáo về hành vi: Trộm cắp tài sản. Ngày 10-01-2003, bị Chủ tịch UBND huyện Sông Hinh áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng số 02 tại thành phố Đà Nẵng 24 tháng, về hành vi: Trộm cắp tài sản và gây rối trật tự công cộng. Ngày 21-6-2018 bị TAND tỉnh Đăk Nông xét xử phúc thẩm xử phạt 03 năm tù về tội: Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Tổng hợp hình phạt 02 năm tù của bản án hình sự sơ thẩm số 23/2017/HSST ngày 20-9-2017 của TAND huyện Sông Hinh, tổng cộng bị cáo X phải chấp hành là 05 (Năm) năm tù, tính từ ngày 12-11-2017.

Bị cáo bị dẫn giải từ Trại giam Xuân Phước đến phiên tòa. Có mặt.

*Bị hại:

- Chị Nguyễn Thị Minh L, sinh năm 1992, nơi cư trú: Thôn Đ, xã A, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Là giáo viên Trường Trung học phổ thông Tôn Đức Thắng, xã Ea Bar, huyện Sông Hinh. Có mặt.

- Chị Nguyễn Thị Bích N3, sinh năm 1995, nơi cư trú: Khu phố S, thị trấn H, huyện Đông Hòa, tỉnh Phú Yên. Là nhân viên thư viện Trường Trung học phổ thông Tôn Đức Thắng, xã Ea Bar, huyện Sông Hinh. Có mặt.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

- Anh Đinh Văn H, sinh năm 1987, nơi cư trú: Thôn 14, xã N, huyện C, tỉnh Đăk Nông. Vắng mặt (có đơn đề nghị xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 01 giờ 00 ngày 31-10-2017, Linh Văn X nảy sinh ý định trộm cắp tài sản bán lấy tiền tiêu xài nên độp nhập vào khu tập thể Trường Trung học phổ thông Tôn Đức Thắng, xã EaBar, huyện Sông Hinh đến phòng ở của chị Nguyễn Thị Bích N3 và chị Nguyễn Thị Minh L lén lút trộm của chị Nguyễn Thị Bích N3 01 điện thoại cảm ứng hiệu Asus zenphonne; trộm của chị Nguyễn Thị Minh L 01 máy tính xách tay hiệu Dell; 01 ví da bên trong có 300.000 đồng; 01 lắc vàng 18k trọng lượng 01 chỉ 06 phân và một số giấy tờ tùy thân gồm: 01 giấy chứng minh nhân dân; 01 thẻ sinh viên; 01 giấy chứng nhận đăng ký mô tô; 01 giấy phép lái xe; 02 thẻ ATM; 01 sợi dây kim loại màu trắng (Inox) mang về nhà cất giấu. Ngày 01-11-2017, Linh Văn X đến thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk đem điện thoại đổi cho một đối tượng tên B, không rõ địa chỉ nhận 03 tép Heroin sử dụng, đem máy tính xách tay bán cho anh Đinh Văn H thu được 1.500.000 đồng mua ma túy sử dụng còn lại tiêu xài cá nhân.

Tại các bản kết luận định giá tài sản số 47 ngày 30-11-2017; số 20 ngày 17-4- 2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Sông Hinh kết luận: 01 máy tính xách tay hiệu Dell trị giá 5.775.000 đồng; 01 lắc vàng 18k trọng lượng 01 chỉ 06 phân trị giá 4.000.000 đồng; 01 điện thoại cảm ứng hiệu Asus zenphonne trị giá 2.880.000 đồng; 01 ví da trị giá 50.000 đồng.

Riêng 01 sợi dây kim loại màu trắng (Inox) và các giấy tờ tùy thân không còn giá trị sử dụng, người bị hại không yêu cầu bồi thường nên cơ quan cảnh sát điều tra không trưng cầu định giá tài sản.

Tổng định lượng tài sản 13.005.000 đồng (Mười ba triệu không trăm lẻ năm nghìn đồng). Vật chứng vụ án: Đã thu và trả lại cho chị L 01 máy tính xách tay hiệu Dell và các giấy tờ tùy thân.

* Ý kiến của bị cáo:

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội đúng như cáo trạng đã truy tố, xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt. Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo X thừa nhận có nhận của anh H 1.500.000 đồng từ việc mua bán 01 máy tính xách tay hiệu Dell và tự nguyện, chấp nhận trả cho anh H 1.500.000 đồng, trả cho chị L 4.500.000 đồng; trả cho chị N3 (theo giá lúc mua điện thoại) 4.500.000 đồng.

* Ý kiến của những người bị hại: Theo đơn báo cáo và các biên bản ghi lời khai trình bày:

1. Chị Nguyễn Thị Bích N3 bị mất 01 điện thoại cảm ứng hiệu Asus zenphonne trị giá 2.880.000 đồng, yêu cầu bị cáo bồi thường 2.880.000 đồng, về hình phạt đề nghị xử theo luật.

2. Chị Nguyễn Thị Minh L bị mất 01 máy tính xách tay hiệu Dell; 01 lắc vàng 18k trọng lượng 01 chỉ 06 phân; 300.000 đồng và 01 ví da. Đã nhận lại 01 máy tính xách tay hiệu Dell, yêu cầu bị cáo bồi thường 01 lắc vàng 18k trọng lượng 01 chỉ 06 phân trị giá 4.000.000 đồng và 300.000 đồng tiền mặt, tổng cộng 4.300.000 đồng, không yêu cầu bồi thường ví da, về hình phạt đề nghị xử theo luật.

* Ý kiến của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Theo đơn và các biên bản ghi lời khai trình bày: Anh Đinh Văn H, là người mua 01 máy tính xách tay hiệu Dell với giá 1.500.000 đồng, chứng minh mình mua bán ngay tình, khi biết tài sản do phạm tội mà có đã nộp lại cho Cơ quan công an, yêu cầu bị cáo phải hoàn trả 1.500.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 05/CT-VKS ngày 28-5-2018 của VKSND huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên đã truy tố bị cáo L Văn X về tội: Trộm cắp tài sản theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1999.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như bản cáo trạng. Sau khi phân tích đánh giá các tình tiết liên quan đến trách nhiệm hình sự. Đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo L Văn X phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Đề nghị áp dụng điểm c khoản 2 Điều 138, điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 51 BLHS 1999 xử phạt bị cáo L Văn X từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù và tổng hợp hình phạt của bản án hình sự phúc thẩm số 48/2018/HS-PT ngày 21-6-2018 của TAND tỉnh Đăk Nông là 05 năm tù. Tổng cộng 08 năm đến 08 năm 06 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12-11-2017. Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị áp dụng Điều 589 Bộ luật dân sự (BLDS) buộc bị cáo L Văn X phải hoàn trả cho anh Đinh Văn H 1.500.000 đồng, trả cho chị Nguyễn Thị Minh L 4.300.000 đồng; trả cho chị Nguyễn Thị Bích N3 2.880.000 đồng. Những tài sản khác tuy có thiệt hại nhưng không có yêu cầu bồi thường gì nên đề nghị không xét.

Bị cáo không có tranh luận gì chỉ xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1] Về tội danh: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo L Văn X thừa nhận hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Lời nhận tội của bị cáo L Văn X phù hợp với lời khai của những người bị hại, phù hợp với vật chứng đã thu được, phù hợp với kết luận định giá tài sản. Xét về chứng cứ có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 01 giờ 00 ngày 31-10-2017, tại khu tập thể Trường Trung học phổ thông Tôn Đức Thắng, xã EaBar, huyện Sông Hinh, Linh Văn X đã có hành vi đến phòng ở của chị N3 và chị L lén lút trộm của chị N3 01 điện thoại cảm ứng hiệu Asus zenphonne; trộm của chị L 01 máy tính xách tay hiệu Dell; 01 ví da bên trong có 300.000 đồng; 01 lắc vàng 18k trọng lượng 01 chỉ 06 phân và một số giấy tờ tùy thân gồm: 01 giấy chứng minh nhân dân; 01 thẻ sinh viên; 01 giấy chứng nhận đăng ký mô tô;

01 giấy phép lái xe; 02 thẻ ATM; 01 sợi dây kim loại màu trắng (Inox) mang về nhà cất giấu. Ngày 01-11-2017, X đến thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk đem điện thoại đổi cho một đối tượng tên B, không rõ địa chỉ nhận 03 tép Heroin sử dụng, đem máy tính xách tay bán cho anh Đinh Văn H thu được 1.500.000 đồng mua ma túy sử dụng còn lại tiêu xài cá nhân. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Sông Hinh phát hiện đã thu giữ 01 máy tính xách tay hiệu Dell trả lại cho bị hại (chị L). Đối với Đinh Văn H khi mua máy tính xách tay không biết là tài sản do bị cáo X trộm cắp không đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên không xem xét trách nhiệm hình sự.

Như vậy, đủ cơ sở khẳng định bị cáo L Văn X phạm tội “Trộm cắp tài sản” bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm nên xử lý theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 138 BLHS 1999 như Viện kiểm sát truy tố là có căm cứ, đúng pháp luật.

[2] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Bị cáo X là bị cáo có nhiều tiền án, nhân thân xấu, hiện đang thi hành án tại Trại giam Xuân Phước là phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, định khung tăng nặng và cần tổng hợp hình phạt theo quy định của pháp luật quy định Điều 51 Bộ luật hình sự 1999. Bi cáo thật thà khai báo nên được áp dụng nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS 1999.

[3] Hướng xử lý: bị cáo L Văn X phạm tội trộm cắp tài sản định lượng tổng cộng 13.005.000 đồng, về nhân thân bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, sống lang thang, khi không có tiền mua ma túy sử dụng để thỏa mãn cơn nghiện thì đi trộm cắp, lừa đảo, lạm dụng…, đã có nhiều tiền án về tội Trộm cắp tài sản và tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và trong thời gian được tại ngoại tiếp tục trộm cắp, chứng tỏ bị cáo không sửa chữa lỗi lầm, nên phải chịu mức án nghiêm khắc. Cần chấp nhận mức án mà kiểm sát viên đề nghị tại phiên tòa, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận trộm cắp và tự nguyện bồi thường nhiều hơn, nhưng chị N3 và chị L chỉ yêu cầu bồi thường theo kết quả định giá, theo đó buộc bị cáo phải bồi thường cho chị N3 2.880.000 đồng; chị L 4.300.000 đồng và anh H 1.500.000 đồng.

[5] Trong quá trình điều tra, truy tố các biện pháp, hành vi và quyết định của điều tra viên, kiểm sát viên đều tuân theo quy định của pháp luật.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm c khoản 2 Điều 138, điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 51 BLHS 1999; Điều 589 BLDS. Căn cứ Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: bị cáo L Văn X (Đen) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Xử phạt bị cáo L Văn X (Đen) 03 (Ba) năm tù. Tổng hợp hình phạt của bản án hình sự phúc thẩm số 48/2018/HS-PT ngày 21-6-2018 của TAND tỉnh Đăk Nông là 05 năm tù. Tổng cộng 08 (Tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12-11-2017.

3. Về trách nhiệm dân sự:

Buộc bị cáo phải trả cho anh Đinh Văn H 1.500.000 đồng (Một triệu năm trăm nghìn đồng), phải trả cho chị Nguyễn Thị Bích N3 2.880.000 đồng (Hai triệu tám trăm tám mươi nghìn đồng) và phải trả cho chị Nguyễn Thị Minh L 4.300.000 đồng (Bốn triệu ba trăm nghìn đồng). Tổng cộng 8.680.000 đồng (Tám triệu sáu trăm tám mươi nghìn đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền chưa thi hành theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 BLDS.

4. Về án phí: bị cáo L Văn X phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm và 434.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm. Tổng cộng 634.000 đồng (Sáu trăm ba mươi bốn nghìn đồng) án phí.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo, những người bị hại được quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

33
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 08/2018/HS-ST

Số hiệu:08/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Hinh - Phú Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về