Bản án về tội trộm cắp tài sản số 05/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG BÚK, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 05/2023/HS-ST NGÀY 30/03/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 3 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 04/2023/HS-ST, ngày 03 tháng 3 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2023/QĐXXST–HS, ngày 15 tháng 3 năm 2023 đối với bị cáo:

Vũ Đức H, sinh năm 1977, tại tỉnh Nam Định; nơi cư trú: thôn A, xã E, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá (học vấn): 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Đức N (chết) và bà Nguyễn Thị T, hiện đang sinh sống tại: Số ….. đường P, thành phố N, tỉnh Nam Định; có vợ là Lâm Thị Thu Th, sinh năm 1992, trú tại thôn A, xã E, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk và 01 con năm 2014;

Tiền sự: không;

Tiền án: Bản án số 16/2019/HS-ST ngày 28/5/2019 của Tòa án nhân dân huyện K, xử phạt Vũ Đức H 01 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong án phạt tù ngày 14/4/2020 (chưa nộp án phí hình sự sơ thẩm);

Nhân thân: Bản án số 84/2002/HS-ST ngày 17/12/2002 của Tòa án nhân dân huyện K xử phạt Vũ Đức H 07 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”; Bản án số 178/2005/HS-ST ngày 30/8/2005 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xử phạt Vũ Đức H 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc số 06/QĐ-TA ngày 13/9/2016 của tòa án nhân dân thị xã B, tỉnh Đắk Lắk, thời gian cai nghiện là 18 tháng.

Bị cáo bị bắt tạm giam kể từ ngày 24/12/2022, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Krông Búk - Có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Ông Châu Ngọc Tr, sinh năm 1978 – có đơn xin xử vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn A, xã P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

Ngƣời m chứng: Ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1970 – vắng mặt. Địa chỉ: Thôn A, xã P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vũ Đức H là người nghiện ma túy, khoảng 08 giờ ngày 07/9/2022 H đi bộ đến khu vực thôn A, xã P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk để tìm kiếm tài sản trộm cắp. H phát hiện vườn cây sầu riêng của anh Châu Ngọc Tr có quả sầu riêng đang vào mùa thu hoạch. H vào rẫy của anh Tr dùng dao Thái Lan mang sẵn cắt trộm 19 quả sầu riêng loại Đô na rồi bỏ vào bao xác rắn. Sau đó, H mang số sầu riêng đi trên đường thì gặp Huỳnh Quốc H1 đang điều khiển xe mô tô không rõ biển số, H nhờ H1 chở bao sầu riêng đi bán thì H1 đồng ý. H1 chở H và số sầu riêng đi trên đường thuộc xã E, huyện K thì gặp một người đàn ông (không rõ nhân thân) đi mua sầu riêng dạo, H đã bán cho người này 19 quả sầu riêng cân nặng 53kg được số tiền 700.000 đồng. Xong H nhờ H1 chở H quay lại vườn sầu riêng của anh Tr để trộm cắp tiếp, khi đến nơi H1 dựng xe mô tô ngoài đường chờ, H vào rẫy của anh Tr tiếp tục cắt trộm quả sầu riêng thì anh Nguyễn Văn D là người làm công cho anh Tr phát hiện bắt giữ H, còn H1 lái xe bỏ chạy.

Kết luận định giá tài sản số 23 ngày 12/9/2022 của Hội đồng định giá tài sản thuộc Ủy ban nhân dân huyện Krông Búk, kết luận: 19 quả sầu riêng Đô na có tổng khối lượng 53kg trị giá 2.650.000 đồng.

Vật chứng của vụ án: 01 con dao Thái Lan dùng để cắt trộm quả sầu riêng và số tiền 700.000 đồng, trong quá trình bị truy bắt Vũ Đức H đã làm rơi mất nên không thu giữ được.

Tại bản Cáo trạng số 03/CT-VKS, ngày 01 tháng 3 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Búk đã truy tố bị cáo Vũ Đức H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Búk sau khi phân tích, chứng minh các chứng cứ buộc tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đã giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo như bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Vũ Đức H phạm tội “Trộm cắp tài sản”, và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Vũ Đức H từ 01 năm tháng đến 01 năm 06 tháng tù.

- Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không có yêu cầu gì nên không xem xét.

- Về xử lý vật chứng: 01 con dao Thái Lan dùng để cắt trộm quả sầu riêng và số tiền 700.000 đồng, trong quá trình bị truy bắt Vũ Đức H đã làm rơi mất nên không thu giữ được nên không đề nghị xử lý.

Đối với Huỳnh Quốc H1 (sinh năm 1989; nơi cư trú: Thôn T, xã P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk), quá trình điều tra H1 đã bỏ trốn chưa ghi được lời khai, chưa đảm bảo đủ căn cứ để chứng minh hành vi phạm tội nên sẽ tiếp tục xác minh xử lý sau.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì và không nói lời nói sau cùng khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo Vũ Đức H khai nhận: Bị cáo là người nghiện ma túy, vào sáng ngày 07/9/2022, tại vườn sầu riêng của anh Châu Ngọc Tr thuộc thôn A, xã P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, bị cáo đã có hành vi lén lút trộm cắp 19 quả sầu riêng loại Đô na có tổng khối lượng 53kg, trị giá 2.650.000 đồng.

Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở pháp lý kết luận: Hành vi của bị cáo Vũ Đức H đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS.

Tại khoản 1 Điều 173 BLHS quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”……...

[3] Đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo Hội đồng xét xử thấy rằng: Khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, bị cáo Vũ Đức H là người đã trưởng thành, đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo có đầy đủ khả năng nhận thức và hoàn toàn ý thức được việc chiếm đoạt tài sản của người khác là sai trái, là vi phạm pháp luật nhưng vì mục đích tư lợi cá nhân bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những đã xâm hại trực tiếp đến tài sản, lợi ích kinh tế của công dân được pháp luật bảo vệ mà còn làm ảnh hưởng xấu tình hình anh ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo là người có tiền án và nhân thân xấu, tại Bản án số 16/2019/HS-ST ngày 28/5/2019 của Tòa án nhân dân huyện Krông Búk, xử phạt Vũ Đức H 01 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong án phạt tù ngày 14/4/2020 (nhưng chưa nộp án phí hình sự sơ thẩm); tại Bản án số 84/2002/HS-ST ngày 17/12/2002 của Tòa án nhân dân huyện Krông Búk xử phạt Vũ Đức H 07 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”; Bản án số 178/2005/HS-ST ngày 30/8/2005 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xử phạt Vũ Đức H 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc số 06/QĐ-TA ngày 13/9/2016 của tòa án nhân dân thị xã B, tỉnh Đắk Lắk, thời gian cai nghiện là 18 tháng. Tuy nhiên, sau khi chấp hành xong hình phạt của các bản án, quyết định xử lý vi phạm hành chính bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà tiếp tục phạm tội, điều này thể hiện sự coi thường pháp luật của bị cáo. Vì vậy cần áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian tương xứng với mức hình phạt theo quy định của Điều luật tương ứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội bị cáo gây ra.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tại bản án số 16/2019/HS-ST ngày 28/5/2019 của Tòa án nhân dân huyện Krông Búk, xử phạt Vũ Đức H 01 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong án phạt tù ngày 14/4/2020 (nhưng chưa nộp án phí hình sự sơ thẩm), bị cáo H chưa được xóa án tích đến ngày 07/9/2022, bị cáo lại thực hiện hành vi phạm tội “trộm cắp tài sản” do cố ý, đây là tình tiết tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo Vũ Đức H đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình; phạm tội gây thiệt hại không lớn. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, cần xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo thể hiện tính nhân đạo và khoan hồng của pháp luật.

[6] Về xử lý vật chứng: 01 con dao Thái Lan dùng để cắt trộm quả sầu riêng và số tiền 700.000 đồng, trong quá trình bị truy bắt Vũ Đức H đã làm rơi mất, không thu giữ được nên không xem xét xử lý.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Do bị hại không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo VŨ ĐỨC H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo VŨ ĐỨC H 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam, ngày 24/12/2022.

2. Về trách nhiệm dân sự: Do bị hại không có yêu cầu nên không xem xét.

3. Về xử lý vật chứng: 01 con dao Thái Lan dùng để cắt trộm quả sầu riêng và số tiền 700.000 đồng, trong quá trình bị truy bắt Vũ Đức H đã làm rơi mất, không thu giữ được nên không xem xét xử lý.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Vũ Đức H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

42
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 05/2023/HS-ST

Số hiệu:05/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Búk - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về