Bản án về tội trộm cắp tài sản số 04/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÔNG HÀ, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 04/2023/HS-ST NGÀY 05/01/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 05 tháng 01 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Q, Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Q đưa ra xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 129/2022/TLHS- ST ngày 29 tháng 11 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 132/2022/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 12 năm 2022 đối với:

Bị cáo Nguyễn Đình H; Tên gọi khác: Cu E; Giới tính: Nam; Sinh ngày: 22/8/1987, tại tỉnh Q; Nơi cư trú: Kiệt 10 Trần Đại N, khu phố X phường Y, thành phố Đ, tỉnh Q; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Con ông: Nguyễn Đình Đ - Sinh năm 1956; Con bà: Võ Thị T - Sinh năm: 1956;

Vợ: Hoàng Thị L, sinh năm 1992; Con: có 02 con (Nguyễn Đình H1 sinh năm 2014, Nguyễn Đình H2 sinh năm 2021); Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân:

- Ngày 15/4/2004, bị Công an phường Y, thị xã Đ (nay là thành phố Đ) xử phạt vi phạm hành chính: Cảnh cáo về hành vi đánh nhau;

- Ngày 23/3/2005, bị Tòa án nhân dân thành phố H xử phạt 18 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Chấp hành xong hình phạt tháng 3/2006, đã xóa án tích.

- Ngày 10/01/2017, bị Công an phường Đ, thành phố Đ xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”, đã nộp phạt ngày 20/01/2017;

- Ngày 07/4/2017, bị Tòa nhân nhân dân thành phố H xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 12/9/2017;

- Ngày 21/5/2018, bị Tòa án nhân dân huyện G xử phạt 21 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 28/8/2019;

- Ngày 17/7/2022 Nguyễn Đình H có hành vi trộm lấy trộm 02 điện thoại di động Nokia và 250.000 đồng, tổng trị giá tài sản chiếm đoạt là 650.000 đồng.

Ngày 20/11/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 275/QĐ-XPHC về hành vi “Trộm cắp tài sản” ;

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 31/8/2022 tại Nhà tạm giữ Công an thành phố H, có mặt.

* Người tham gia tố tụng khác:

Bị hại: Ông Nguyễn Ngọc K, sinh năm 1964; địa chỉ: Khu phố A, phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Q, vắng mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Hoàng Thị L, sinh năm 1992; địa chỉ: Khu phố X, phường Y, thành phố Đ, tỉnh Q, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 12 giờ 00 phút ngày 06/7/2022, do thiếu tiền tiêu xài cá nhân, Nguyễn Đình H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX, biển kiểm soát 74C - xxxxx đến khu vực đường Thạch Hãn (thuộc khu phố A, phường Đ, thành phố Đ) tìm nhà nào sơ hở để trộm cắp tài sản. Khi đến trước nhà của anh Nguyễn Ngọc K thấy cửa mở nên H đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Sau đó, H lén lút vào nhà của anh K bằng cửa trước và lấy trộm 01 (một) điện thoại di động Nokia 105, màu đen và số tiền mặt 3.000.000 đồng (tại túi quần dài bên phải treo trên ghế bàn ăn). Sau khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, H rời khỏi nhà và đem tài sản về nhà cất giấu. Số tiền 3.000.000 đồng H đã tiêu xài cá nhân hết.

Tại kết luận định giá tài sản số 50/KLĐGTS ngày 25/7/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố H kết luận:

- Trị giá 01 (một) điện thoại Nokia 105, màu đen, số Sê - ri: 357698101771012, IMEI: 3569810771012, đã qua sử dụng, không kiểm tra chi tiết bên trong, tại thời điểm bị chiếm đoạt là: 456.000 đồng (Bốn trăm năm mươi sáu nghìn đồng);

Cáo trạng số 134/CT-VKSĐH ngày 29/11/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H truy tố bị cáo Nguyễn Đình H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H giữ nguyên Cáo trạng truy tố bị cáo Nguyễn Đình H về tội “Trộm cắp tài sản” và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Đình H từ 09 tháng đến 12 tháng tù.

Xử lý vật chứng: Trả lại xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX màu xanh, bạc, đen, biển kiểm soát 74C1 - xxxxx, số máy: C52E-4514462, số khung: 521XCY336579 cho chị Hoàng Thị L.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hành vi tố tụng, quyết định tố tụng: Đối với hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an thành phố H, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến gì hoặc có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng nên hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và xét hỏi công khai tại phiên tòa, có đủ cơ sở khẳng định:

Khoảng 12 giờ 00 phút ngày 06/7/2022, Nguyễn Đình H đã có hành vi lén lút vào nhà của anh Nguyễn Ngọc K lấy trộm 01 (một) điện thoại di động Nokia 105, màu đen trị giá 456.000 đồng và số tiền mặt 3.000.000 đồng, tổng cộng trị giá tài sản bị chiếm đoạt là 3.456.000 đồng.

Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Đình H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự như cáo trạng đã truy tố là có căn cứ.

[3] Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản của bị hại, làm mất trật tự trị an xã hội, gây hoang mang lo lắng trong nhân dân.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo đã thành khẩn khai báo, tác động gia đình bồi thường cho bị hại, bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bị cáo có bố được tặng thưởng huân chương, nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Trên cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cùng với các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng. Ngoài ra, bị cáo còn có nhân thân xấu, từ năm 2004 đến nay bị cáo đã ba lần bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh nhau và trộm cắp tài sản; ba lần bị xét xử về tội Trộm cắp tài sản và tội Cố ý gây thương tích. Nên Hội đồng xét xử xét thấy cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm, phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục và phòng ngừa chung.

[5] Xử lý vật chứng:

Ngày 30/8/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 53/QĐ bằng hình thức trả lại :

- 01 (một) điện thoại Nokia 105, màu đen, số Sê - ri: 357698101771012, IMEI: 3569810771012, đã qua sử dụng, không kiểm tra chi tiết bên trong cho anh Nguyễn Ngọc K là chủ sở hữu hợp pháp;

Đối với xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX màu xanh, bạc, đen, biển kiểm soát 74C1 - xxxxx, số máy: C52E-4514462, số khung: 521XCY336579 là của chị Hoàng Thị L (vợ của bị cáo), là tài sản riêng của chi L có trước khi kết hôn. Bị cáo H sử dụng xe làm phương tiện đi trộm cắp tài sản chị L không biết, chị L có nguyện vọng xin được nhận lại xe, nên cần trả lại xe mô tô trên cho chị Hoàng Thị L.

[6] Về trách nhiệm dân sự:

Chị Hoàng Thị Liệu đã tự nguyện bồi thường cho bị hại anh Nguyễn Ngọc K số tiền 3.000.000 đồng. Anh Nguyễn Ngọc K đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm, nên Hội đồng xét xử không xem xét. Chị L không yêu cầu bị cáo Nguyễn Đình H phải trả lại tiền bồi thường cho chị L.

[7] Về áp dụng biện pháp ngăn chặn:

Căn cứ Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử ban hành Quyết định tạm giam đối với bị cáo để đảm bảo thi hành án.

[8] Về án phí:

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội “Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án”.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đình H (tên gọi khác: Cu E) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Đình H 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 31/8/2022.

2. Về xử lý vật chứng:

Áp dụng khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Trả lại cho chị Hoàng Thị L xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX màu xanh, bạc, đen, biển kiểm soát 74C1 - xxxxx, số máy: C52E-4514462, số khung: 521XCY336579.

Vật chứng trên có đặc điểm như tại Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 28/12/2022 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H, hiện có tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội “Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án”, buộc bị cáo Nguyễn Đình H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

15
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 04/2023/HS-ST

Số hiệu:04/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đông Hà - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về