Bản án về tội trộm cắp tài sản số 04/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 04/2020/HS-ST NGÀY 03/02/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 03 tháng 02 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 100/2019/TLST-HS ngày 19 tháng 12 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 100.1/2020/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 01 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Đăng K; sinh năm: 1991 tại tỉnh Đồng Tháp; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Khóm N, phường T, thành phố L, tỉnh Đồng Tháp; nơi ở: (không có nơi ở nhất định); nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Việt T và bà: Lê Thị H; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 26/3/2009 bị Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh tỉnh Đồng Tháp xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 28/2009/HSST, ngày 27/4/2012 bị Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh tỉnh Đồng Tháp xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 24/2012/HSST; bị bắt giữ ngày: 03/9/2019.

(Bị cáo có mặt).

- Bị hại:

1/Ông Nguyễn Văn T1 – Sinh năm: 1953 (vắng mặt). Địa chỉ: đường T, Phường H, Quận B, TP.HCM.

2/Ông Lê Minh T – Sinh năm: 1980 (vắng mặt). Địa chỉ: đường T, Phường B, Quận M, TP.HCM.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 01 giờ 15 ngày 03/9/2019, Nguyễn Đăng K đi ngang qua tòa nhà Hoàng Anh Gia Lai – địa chỉ: 3/7 đường Thành Thái, Phường 14, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh thì nhìn thấy bảo vệ tòa nhà (là các anh Nguyễn Văn T1, Nguyễn Trọng A, Lê Minh T) đang ngủ nên nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản. K trèo qua cổng chính của tòa nhà rồi đi vào trong, K nhìn thấy có 02 điện thoại di động (hiệu SamSung J5 màu đồng và Iphone 4 màu trắng) của anh Nguyễn Văn T để trên bàn bảo vệ, 02 điện thoại di động (hiệu SamSung J5 màu trắng N7100 và Nokia I12 màu trắng) và 01 máy tính bảng hiệu SamSung của anh Lê Minh T để trên ghế nhựa màu đỏ; K lén lút lấy 04 điện thoại và 01 máy tính bảng của các anh T1, T đi ra cổng chính thì gặp anh Nguyễn Thành A; K chạy vào nhà vệ sinh tại tầng 1 để trốn. Sau đó, lực lượng bảo vệ và Công an Phường 14, Quận 10 phát hiện, thu giữ trong người K các tài sản trên. Vụ việc được Công an Phường 14, Quận 10 lập hồ sơ ban đầu, sau đó chuyển đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 10 điều tra, làm rõ.

Tài sản bị chiếm đoạt là: 01 điện thoại di động hiệu SamSung Note 2 N7100 màu trắng; 01 điện thoại di động hiệu Nokia I12 màu trắng; 01 máy tính bảng hiệu SamSung Galaxy Tab 3 Lite màu đen; 01 điện thoại di động hiệu SamSung J5 màu vàng đồng; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 4 màu trắng. Tại Kết luận định giá tài sản số 757/KL-ĐGTS ngày 13/9/2019 của Hội đồng định giá thường xuyên tài sản trong tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân Quận 10 kết luận: các tài sản trên có tổng giá trị là 2.650.000 đồng. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 đã trả lại tài sản cho các anh Lê Minh T và Nguyễn Văn T. Nhận lại tài sản, các anh Tuấn, Thanh không có yêu cầu gì khác.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 đã quyết định khởi tố điều tra đối với Nguyễn Đăng K về hành vi “Trộm cắp tài sản”.

Quá trình điều tra, Nguyễn Đăng K khai nhận hành vi như trên.

Đối với: 01 đôi dép kẹp màu xanh dương có chỉ viền trắng, 01 nón lưỡi trai màu đen, 01 khẩu trang y tế màu xanh dương, 01 áo khoác màu đen dài tay thu giữ của Nguyễn Đăng K; Công an Quận 10 đã tạm giữ lại.

Tại bản cáo trạng số 03/CT-VKS ngày 18 tháng 12 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 10 Thành Phố Hồ Chí Minh đã truy tố: Nguyễn Đăng K về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa hôm nay:

- Bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình như lời khai tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh công bố bản luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo đúng theo nội dung bản cáo trạng. Sau khi phân tích tính chất và hậu quả của vụ án đối với xã hội, bị hại, sau khi nêu lên những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại) và nhân thân của bị cáo; đã đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s, h khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo: Nguyễn Đăng K từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù, phạt bổ sung từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.

Đề nghị xử lý trách nhiệm và các biện pháp tư pháp khác theo quy định của pháp luật.

- Ý kiến của bị cáo: Không có ý kiến gì tranh luận.

- Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo rất hối hận về hành vi của mình, mong Hội đồng xét xử khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên thu thập; do bị can, bị cáo, người tham gia tố tụng khác cung cấp đều thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về những chứng cứ, tài liệu đã thu thập, cung cấp. Do đó, những chứng cứ, tài liệu trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng như đã nêu trên. Tại các bản tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung bị can mà bị cáo đã trình bày nội dung lời khai là hoàn toàn tự nguyện. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Nhận định hành vi và điều khoản xét xử:

Tại Cơ quan điều tra, cũng như trước phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thừa nhận hành vi của mình, qua lời khai nhận của bị cáo, đối chiếu với lời khai của bị hại, người làm chứng, vật chứng, bản kết luận định giá tài sản, biên bản thực nghiệm điều tra, cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án là phù hợp, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở xác định: Bị cáo thực hiện nhiều hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của các bị hại có tổng giá trị 2.650.000 đồng; nên bị cáo bị truy tố và xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017).

Ngoài ra, Hội đồng xét xử cần nhận định thêm như sau: Do bị cáo chiếm đoạt các tài sản của hai người bị hại trong cùng một lúc, nên cần thiết cộng giá trị tài sản để xác định giá trị tài sản chiếm đoạt đối với bị cáo, nhưng không xem xét tính nhiều lần đối với các hành vi của bị cáo.

[4] Việc áp dụng hình phạt, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Các hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người khác mà còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội; ngoài ra bị cáo còn có đặc điểm nhân thân: Ngày 26/3/2009 bị Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh tỉnh Đồng Tháp xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 28/2009/HSST, ngày 27/4/2012 bị Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh tỉnh Đồng Tháp xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 24/2012/HSST (đã xóa án tích); nhưng bị cáo không lấy làm bài học kinh nghiệm để tu dưỡng bản thân mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy các hành vi phạm tội của bị cáo cần phải bị xử phạt nghiêm minh bằng luật hình với mức hình phạt tương xứng với nhân thân, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cụ thể cần thiết phải cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhất định để cải tạo giáo dục, đồng thời cũng để răn đe, giáo dục đối với những người thực hiện hành vi tương tự, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tệ nạn tại địa phương.

Về tình tiết tăng nặng: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ: Tuy nhiên, xét thấy bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại; do vậy Hội đồng xét xử áp dụng điểm s, h khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo; đồng thời miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo do đã được xóa án tích.

[5] Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp khác:

Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị chiếm đoạt, đã được thu hồi và giao trả lại cho bị hại; do vậy không có gì để Tòa giải quyết.

Về vật chứng:

Đối với 01 đôi dép kẹp màu xanh dương có chỉ viền trắng, 01 nón lưỡi trai màu đen, 01 khẩu trang y tế màu xanh dương, 01 áo khoác màu đen dài tay; không đáng giá trị; vậy căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; tịch thu và tiêu hủy.

Về án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Đăng K phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s, h khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Nguyễn Đăng K;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đăng K 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03/9/2019.

Miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo K.

- Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; tịch thu và tiêu hủy: 01 đôi dép kẹp màu xanh dương có chỉ viền trắng, 01 nón lưỡi trai màu đen, 01 khẩu trang y tế màu xanh dương, 01 áo khoác màu đen dài tay.

(Tình trạng tài sản theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 18/12/2019 giữa Công an Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh và Chi cục Thi hành dân sự Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh).

- Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc:

- Bị cáo K chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án.

Thời hạn kháng cáo là 15 ngày; đối với bị cáo tính từ ngày tuyên án, đối với bị hại thì tính từ ngày được giao hoặc ngày niêm yết bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

42
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 04/2020/HS-ST

Số hiệu:04/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 10 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về