Bản án về tội trộm cắp tài sản số 03/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ Đ, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 03/2022/HS-ST NGÀY 19/01/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 01 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 103/2021/TLST-HS ngày 30 tháng 12 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2022/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 01 năm 2022 đối với bị cáo:

Trần Thế L, tên gọi khác: Không; sinh ngày 15 tháng 4 năm 1986 tại tỉnh Quảng Bình; nơi cư trú: Tổ dân phố D, phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Lớp 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Thế L(đã chết) và bà Lê Thị Ánh H; vợ, con: Chưa có Tiền án: 04 tiền án.

Bản án hình sự sơ thẩm số 78/2008/HSST ngày 24/9/2008 của Tòa án nhân dân thành phố Đ xử phạt Trần Thế L 06 tháng tù về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”;

Bản án hình sự phúc thẩm số 62/2012/HSPT ngày 06/6/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xử phạt Trần Thế L 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”;

Bản án hình sự sơ thẩm số 75/2012/HSST ngày 30/8/2012 của Tòa án nhân dân thành phố Đ xử phạt Trần Thế L 12 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”;

Bản án hình sự phúc thẩm số 135/2012/HSPT ngày 20/11/2014 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xử phạt Trần Thế L 03 năm tù về tội “Cướp tài sản” và 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Tiền sự: 02 tiền sự.

Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 10/CATPĐH ngày 10/01/2012 của Công an thành phố Đ đối với Trần Thế L về hành vi “Trộm cắp tài sản” bằng hình thức Phạt tiền.

Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0046122/QĐ-XPHC ngày 09/6/2021 của Công an huyện Quảng Ninh đối với Trần Thế L về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” bằng hình thức Phạt tiền.

Nhân thân:

Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 00225 ngày 07/11/2011 của Công an thành phố Đ đối với Trần Thế L về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” bằng hình thức Phạt tiền.

Ngày 20/7/2021 bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lệ Thủy khởi tố bị can về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 16/11/2021 đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Đ, có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Chị Bùi Thị N, sinh năm 1975, địa chỉ: Tổ dân phố Diêm Nam, phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Bùi Văn Th, sinh năm 1978, địa chỉ: Tổ dân phố Diêm Bắc 1, phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 07/9/2021, Trần Thế L một mình đi bộ đến khu vực cánh đồng lúa thuộc tổ dân phố 1, phường N, thành phố Đ, L phát hiện trên bờ ruộng có để 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đỏ - đen, BKS 73B1 - X của chị Bùi Thị N không có người trông giữ nên nảy sinh ý định trộm cắp. Trần Thế L tiến đến vị trí dựng chiếc xe mô tô trên, dùng 01 chìa khóa chuẩn bị sẵn mở khóa rồi điều khiển xe tẩu thoát. Để tránh bị phát hiện, trên đường đi Trần Thế L đã vứt bỏ chìa khóa và biển kiểm soát của xe mô tô, hiện không thu giữ được. Trần Thế L mang xe trộm cắp được về nhà cất dấu, chưa kịp tiêu thụ thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ phát hiện, thu giữ.

Theo Kết luận định giá số 56/KL-HĐĐG ngày 20/9/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Đ kết luận: 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đỏ - đen, số máy 023072, số khung 023047, không có biển kiểm soát, đã qua sử dụng, tại thời điểm bị chiếm đoạt trị giá 6.900.000 đồng Vật chứng vụ án: Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ đã thu giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đỏ - đen, số máy 023072, số khung 023047, không có biển kiểm soát, đã qua sử dụng. Kết quả xác minh chủ xe là anh Bùi Văn T, địa chỉ: Tổ dân phố Diêm Bắc 1, phường Đức Ninh Đông, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình; năm 2014, anh Thành đã bán chiếc xe này cho chị Bùi Thị N nhưng hai bên chưa làm thủ tục sang tên đổi chủ. Hiện chị Như là chủ sở hữu hợp pháp của xe mô tô nói trên.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ đã quyết định xử lý vật chứng trả lại cho chị Bùi Thị N 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đỏ - đen, số máy 023072, số khung 023047, không có biển kiểm soát, đã qua sử dụng. Chị Như nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm.

Cáo trạng số 01/CT-VKSĐH-KT ngày 30/12/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình đã truy tố Trần Thế L về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà sơ thẩm:

Bị cáo Trần Thế L khai nhận diễn biến hành vi phạm tội của bị cáo đã thực hiện đúng như nội dung Cáo trạng đã mô tả và truy tố, không oan.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Trần Thế L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Trần Thế L mức án từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/11/2021.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng, trách nhiệm dân sự: Không xem xét.

Bị cáo Trần Thế L không tranh luận về tội danh và mức hình phạt mà Kiểm sát viên đã đề nghị trong bản luận tội.

Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho mình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Đ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân thành phố Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, về trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nên những hành vi, quyết định đã thực hiện là hợp pháp.

Về sự vắng mặt của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án tại phiên tòa hôm nay. Xét thấy những người này đã được Tòa án triệu tập hợp lệ; quyền lợi của bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án đã được giải quyết trong giai đọan điều tra, hồ sơ vụ án cũng đã có đầy đủ lời khai của những người này, tại phiên tòa nếu xét thấy cần thiết Hội đồng xét xử sẽ công bố. Việc các đương sự vắng mặt tại phiên tòa không làm ảnh hưởng đến quá trình xét xử vụ án, căn cứ Điều 292 BLTTHS, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự trên.

[2]. Về hành vi phạm tội và tội danh của bị cáo.

Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như Cáo trạng đã truy tố. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa và trong quá trình điều tra là thống nhất với nhau, phù hợp với lời khai của bị hại, phù hợp với vật chứng bị thu giữ, Kết luận định giá và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét, thẩm tra tại phiên tòa. Như vậy đã có đủ cơ sở để khẳng định: Lợi dụng sơ hở trong việc quản lý tài sản của người khác, vào khoảng 15 giờ 00 phút ngày 07/9/2021, Trần Thế L đã có hành vi lén lút thực hiện trộm cắp tài sản là 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đỏ - đen, BKS 73B1 - X của chị Bùi Thị N có giá trị 6.900.000 đồng. Tại thời điểm thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, Trần Thế L đang có 04 tiền án. Vì vậy, theo giá trị tài sản mà Trần Thế L chiếm đoạt của bị hại đã thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát và bản luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa đề nghị truy tố và xét xử bị cáo theo tội danh và điều luật nêu trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật.

[3]. Về tính chất, hành vi phạm tội và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an trên địa bàn. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi "Trộm cắp tài sản" là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo đã bất chấp các quy định của pháp luật cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Do đó cần có mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện để có tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, đồng thời nhằm răn đe và phòng ngừa chung trong xã hội.

Tuy nhiên, trước khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử cần xem xét đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo như sau Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo luôn có thái độ thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.

Về nhân thân: Bị cáo Trần Thế L là người có nhân thân xấu, có nhiều tiền án, tiền sự. Trong một thời gian dài bị cáo liên tục bị kết án và bị các cơ quan có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính. Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đang có 04 tiền án và 02 tiền sự. Hồ sơ vụ án thể hiện bị cáo chấp hành xong hình phạt tù và trở về địa phương, chưa được xóa án tích, lẽ ra phải lấy đó làm bài học cho bản thân, nhưng bị cáo lại tỏ thái độ bất chấp, coi thường các quy định của pháp luật và lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Ngày 20/7/2021, bị cáo tiếp tục bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lệ Thủy khởi tố bị can về hành vi “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự. Với bản tính lười lao động chân chính, không chịu tu dưỡng, rèn luyện để thay đổi bản thân theo hướng tích cực nhưng lại mong muốn nhanh chóng có tiền để tiêu xài nên bị cáo đã trượt dài trong các vi phạm pháp luật.

Căn cứ vào nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tính chất mức độ nguy hiểm và hậu quả của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, Hội đồng xét xử thấy rằng bản luận tội và đề nghị áp dụng mức hình phạt của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đối với bị cáo Trần Thế L là có cơ sở và phù hợp. Vì vậy, cần áp dụng một hình phạt thật nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới đủ tác dụng giáo dục, răn đe, phòng ngừa chung, cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích.

- Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo Trần Thế L là người không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4]. Các vấn đề khác - Vật chứng của vụ án: Quá trình điều tra, cơ quan CSĐT Công an thành phố Đ đã xác định đúng chủ sở hữu của tài sản mà bị cáo chiếm đoạt, đã quyết định xử lý trả lại tài sản cho chủ sở hữu. Xét việc xử lý vật chứng trong giai đoạn điều tra như trên là đúng quy định của pháp luật.

- Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị chiếm đoạt đã được thu hồi và trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp, hiện bị hại không có yêu cầu gì thêm nên không xem xét.

- Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Trần Thế L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Xử phạt bị cáo Trần Thế L 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/11/2021.

Quyết định tạm giam bị cáo Trần Thế L 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo thi hành án.

3. Hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo Trần Thế L 4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Trần Thế L phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

5. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; bị hại chị Bùi Thị N có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

47
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 03/2022/HS-ST

Số hiệu:03/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Hới - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về