Bản án về tội trộm cắp tài sản (mủ cao su) số 124/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG KHÁNH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 124/2022/HS-ST NGÀY 20/12/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 12 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố K, tỉnh Đ mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 125/2022/HSST ngày 21 tháng 11 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 132/2022/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 12 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn C Th, sinh năm 1983, tại tỉnh Đ; nghề nghiệp: Không; Nơi cư trú: tổ 16, khu phố S, phường S, thành phố K, tỉnh Đ; Giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Phật; Trình độ học vấn: 12/12; con ông Nguyễn L Th, sinh năm 1951 (Đã chết) và bà Tr Th L, sinh năm 1953; Bị cáo chưa có vợ, con;

Tiền sự: Ngày 27/6/2022, Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường S, thành phố K ban hành Quyết định số 421/QĐ-UBND về việc Cai nghiện ma túy tự nguyện tại gia đình, cộng đồng đối với Nguyễn Chí T thời gian cai nghiện từ ngày 27/6/2022 đến ngày 27/12/2022.

Tiền án:

+ Ngày 25/4/2017, bị Tòa án nhân dân thị xã K (nay là thành phố K) xử phạt 01 năm tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 52/2017/HSST. Ngày 13/01/2018, chấp hành xong hình phạt tù, hiện chưa đóng thi hành nộp tiền sung công quỹ Nhà nước.

+ Ngày 11/01/2019, bị Tòa án nhân dân thị xã K (nay là thành phố K) xử phạt 06 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”, tại bản án số 07/2019/HSST. Đến ngày 10/3/2019, chấp hành xong hình phạt tù, đã thi hành xong án phí hình sự sơ thẩm.

+ Ngày 30/9/2019, bị Tòa án nhân dân thành phố K xử phạt 08 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”, tại bản án số 85/2019/HSST. Đến ngày 27/02/2020, chấp hành xong hình phạt tù, hiện chưa đóng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

+ Ngày 15/6/2021, bị Tòa án nhân dân thành phố K xử phạt 08 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”, tại bản án số 63/2021/HSST. Đến ngày 25/11/2021, chấp hành xong hình phạt tù, hiện chưa đóng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Nhân thân:

+ Ngày 17/3/2008, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh thời gian là 24 tháng, tại Quyết định số 2036/QĐ-UBND.

+ Ngày 18/5/2011, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã K (nay là thành phố K áp dụng biện pháp đưa vào Trung tâm chữa bệnh, thời gian là 24 tháng, tại Quyết định số 75/QĐ-UBND. Đến ngày 23/5/2013, chấp hành xong.

+ Ngày 25/7/2013, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã K (nay là thành phố K) áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh, thời gian là 24 tháng, tại Quyết định số 148/QĐ-UBND. Đến ngày 19/9/2015, chấp hành xong.

+ Ngày 22/7/2016, bị Tòa án nhân dân thị xã K (nay là thành phố K áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời gian là 24 tháng, tại Quyết định số 29/QĐ-TA. Đến ngày 06/11/2016, được Giám đốc cơ sở điều trị nghiện ma túy ra Quyết định tạm thời đưa ra khởi cơ sở cai nghiện bắt buộc để đưa về gia đình quản lý và chữa bệnh HIV/AIDS.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam từ ngày 14/9/2022, cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố K. (Bị cáo có mặt)

- Bị hại: Công ty TNHH MTV T Đ Địa chỉ: khu phố Tr, phường X, thành phố K, tỉnh Đ.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Đỗ Minh T - Tổng Giám đốc

Người đại diện theo ủy quyền của bị hại: Anh Tạ Anh D, sinh năm 1985 - Trợ lý Ban Tổng Giám đốc Nơi cư trú: ấp T, xã H, thành phố K, tỉnh Đ. (Có đơn xin vắng mặt)

- Người làm chứng: Anh L Đ Ch, sinh năm 1971 Nơi cư trú: tổ 16, khu phố S, phường S, thành phố K, tỉnh Đ. (Vắng mặt)

- Người chứng kiến: Anh Nguyễn L T, sinh năm 1976 Nơi cư trú: tổ 8, khu phố S, phường S, thành phố K, tỉnh Đ. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn C Th là đối tượng nghiện ma túy từ năm 2003, bị cáo không có nghề nghiệp ổn định. Để có tiền tiêu xài cá nhân và mua ma túy để sử dụng, Nguyễn C Th đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản cụ thể như sau:

Vào khoảng 15 giờ ngày 12/7/2022, Th đi bộ từ nhà đến nhà bạn tại phường X, thành phố K. Khi đi ngang qua lô cao su 123-133 của Nông trường An Lộc, Th thấy có nhiều tô hứng mủ gắn trên cây cao su có mủ đông đặc nhưng không có người trông coi nên nảy sinh ý định trộm cắp mủ cao su mang về đi bán lấy tiền tiêu xài và mua ma túy sử dụng. Sau đó, Th nhặt 01 xô nhựa màu trắng rồi dùng tay lấy mủ cao su bỏ vào trong rồi mang về nhà cất giấu. Đến 15 giờ 10 phút cùng ngày anh Lưu Đ C, sinh năm 1971, ngụ tổ 16, khu phố S, phường S, thành phố K là nhân viên bảo vệ của Nông trường đi tuần tra thì phát hiện mất mủ cao su nên đã trình báo Công an phường Suối Tre. Đến 17 giờ cùng ngày, Công an phường S đến nhà mời Th về làm việc thì phát hiện thu giữ 01 xô nhựa màu trắng bên trong có chứa khoảng 20 ký mủ cao su. Tại cơ quan Công an, Th đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại bản kết luận số 49/HĐĐGTTTHS, ngày 19 tháng 8 năm 2022, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố K kết luận: 20 ký mủ đông đặc (thời điểm ngày 12/7/2022) có giá trị 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng).

* Vật chứng thu giữ và xử lý: 20 ký mủ đông đặc, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố K đã thu hồi và trả lại cho chủ sở hữu là Công ty cao su Đ; 01 xô nhựa màu trắng chuyển Chi cục thi hành án dân sự thành phố K theo quy định pháp luật.

* Trách nhiệm dân sự: Công ty cao su Đ đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường gì thêm.

Tại bản Cáo trạng số: 105/CT-VKSLK ngày 11/11/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố K đã truy tố bị cáo Nguyễn C Th về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay:

* Bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, không tham gia tranh luận.

* Đại diện theo ủy quyền của bị hại, người làm chứng và người chứng kiến vắng mặt nên không có lời trình bày, Hội đồng xét xử công bố lời khai của họ tại cơ quan điều tra.

* Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên toà vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi phạm tội của bị cáo như nội dung bản cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo: Từ 08 tháng đến 12 tháng tù giam - Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận tài sản, không có ý kiến yêu cầu gì.

- Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 xô nhựa màu trắng

* Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo nói sau cùng: Trong thời gian bị tạm giữ, tạm giam bị cáo rất ân hận, kính mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt, bị cáo sẽ không tái phạm nữa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về sự vắng mặt của người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền bị hại, người làm chứng vắng mặt nhưng cơ quan điều tra đã xác minh, làm việc nên việc vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc xét xử. Do đó, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại các Điều 292 và Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[3] Về tội danh và điều luật áp dụng: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án thể hiện:

Vào khoảng 15 giờ 00 phút ngày 12/7/2022, lợi dụng sở hở của lực lượng bảo vệ tại lô cao su 123-133 Nông trường cao su An Lộc thuộc khu phố Suối Tre, phường Suối Tre, thành phố K, Nguyễn C Th đã lén lút lấy trộm 20 ký mủ cao su có giá trị 300.000 đồng mang về nhà cất giấu thì bị phát hiện bắt giữ.

Mặc dù trị giá tài sản trộm cắp dưới 2.000.000 đồng nhưng Nguyễn Ch Th có tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích nên hành vi của Nguyễn Ch Th đã cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Do vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo như trên là có cơ sở, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Xét tính chất, mức độ của hành vi của bị cáo:

Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy từ nhiều năm nay, bị cáo đã nhiều lần bị cơ quan hành chính Nhà nước áp dụng các biện pháp chữa bệnh và đưa đi cai nghiện bắt buộc, bị cáo cũng nhiều lần bị Tòa án kết án về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo ý thức được những tác hại khi nghiện ma túy mang lại và hành vi trộm cắp tài sản là vi phạm pháp luật, nhưng bị cáo vẫn không từ bỏ được ma túy và để có được ma túy sử dụng và nhu cầu tiêu xài cá nhân mà bị cáo mà lại tiếp tục dấn thân vào con đường phạm tội. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến tài sản của tổ chức được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương.

[5] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân và hình phạt đối với bị cáo:

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Bị cáo đã bị kết án nhưng chưa được xóa án tích, tình tiết này là dấu hiệu định tội danh nên không coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 2 Điều 52 của Bộ luật Hình sự; bị cáo có nhân thân xấu.

Căn cứ vào hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét cần áp dụng mức án nghiêm buộc phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo đồng thời có tác dụng chung trong việc đấu tranh và phòng ngừa tội phạm.

Ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền được quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không có ý kiến yêu cầu gì nên không xem xét.

[7] Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 xô nhựa màu trắng

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố K phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự; Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ch Th phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Ch Th 01 (Một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 14/9/2022. Tiếp tục tạm giam bị cáo Nguyễn Chí T để đảm bảo thi hành án.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 01 xô nhựa màu trắng. (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/11/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố K, tỉnh Đ).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2, Điều 136 của Bộ Luật tố tụng hình sự;

Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Ch Th phải nộp 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo đối với Bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày Tòa án tống đạt bản án hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

19
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản (mủ cao su) số 124/2022/HS-ST

Số hiệu:124/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Khánh - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/12/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về
Vào ngày 12/7/2022, T đã trộm 20 ký mủ cao su trị giá 300.000 đồng của Công ty TNHH MTV Cao su Đồng Nai tại Nông trường An Lộc. Sau đó, T bị phát hiện và bắt giữ.

Tòa án nhận định hành vi của T đã cấu thành tội "Trộm cắp tài sản" theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Mặc dù trị giá tài sản trộm cắp dưới 2.000.000 đồng, nhưng T có tiền án về tội này chưa được xóa án tích.

Xét tình tiết giảm nhẹ là T thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và phạm tội gây thiệt hại không lớn, Tòa án tuyên phạt T 01 năm tù giam. Đồng thời, Tòa án cũng tịch thu tiêu hủy vật chứng là 01 xô nhựa màu trắng.