Bản án về tội trộm cắp, lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 57/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH SƠN, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 57/2022/HS-ST NGÀY 29/11/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP, LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 11 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 58/2022/TLST- HS ngày 02 tháng 11 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 56/2022/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 11 năm 2022 đối với bị cáo: Ngọc Văn K - sinh ngay 25/6/1987 tại Thanh Sơn, Phú Thọ; Tên gọi khác: không có; Giới tính: Nam; Hộ khẩu thường trú: Xóm B, xã M, tỉnh Phú Thọ; Dân tôc Mường;Tôn giao :Không; Văn hoa : Lớp 04/12;Nghê nghiêp:Lao động tự do; Chức vụ trước khi phạm tội: Không; Bố đẻ: Ngọc Văn M (Đã chết); Mẹ đẻ: Đinh Thị T – sinh năm 1949; Anh chị em ruột: Bị cáo có 7 anh chị em, lớn nhất sinh năm 1966, bị cáo là con nhỏ nhất;

Vợ: Lô Thị N, sinh năm 1990; Con có 02 con sinh năm 2013 và 2014 Hiện mẹ, anh chị em, vợ con của bị cáo đều thường trú tại xã M, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.

- Tiền sự: Bị cáo có 01 tiền sự: Ngày 23/5/2021 bị Công an xã M ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 01/QĐ-XPHC về hành vi “Trộm cắp tài sản” với mức phạt 1.500.000 đồng. Đến nay bị cáo K chưa thực hiện Quyết định xử phạt vi phạm hành chính này.

- Tiền án: Không.

- Lịch sử bản thân: Bản án số 21/2017/HSST ngày 11/5/2017 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn tuyên Ngọc Văn K phạm tội “Đánh bạc”. Xử phạt 09 tháng cải tạo không giam giữ. Ngày 23/02/2018 bị cáo chấp hành xong toàn bộ bản án.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 10/8/2022. Hiện nay bị can đang bị tạm giam tại Trại tạm giam - Công an tỉnh Phú Thọ.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Bùi Đức D- Trợ giúp viên pháp lý, thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Phú Thọ.

( Bị cáo, Người bào chữa cho bị cáo có mặt tại phiên tòa).

Người bị hại:

- Chị Đinh Thị N, sinh năm 1972, Địa chỉ: Xóm B, xã M, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ,

- Anh Xa Văn T, sinh năm 1995 Địa chỉ: Xóm T, xã Tân Lập, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ,

Ngưi bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại C, T: Bà Đinh Thị H- Trợ giúp viên pháp lý, thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Phú Thọ.(Có mặt).

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- Anh Bùi Văn T, sinh năm 1972 Địa chỉ: Tổ 8, phường H, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình,

Người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ ngày 23/6/2022, Ngọc Văn K (Sinh năm 1987, thường trú tại xóm B, xã M, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ) đi bộ từ nhà mình sang nhà anh trai ruột là anh Ngọc Văn C (Sinh năm 1975) ở cùng xóm B, xã M để mượn xe mô tô. Khi K mượn xe anh C không đồng ý nên K đi về nhà. Khoảng 30 phút sau, K tiếp tục đi sang nhà anh C để mượn xe mô tô thì thấy cả gia đình nhà anh C đang ngồi ăn cơm trong bếp. Xe mô tô biển kiểm soát 19Z5-xxxx để ở đầu nhà khuất tầm nhìn và vẫn cắm chìa khóa điện nên K nảy sinh ý định trộm cắp. K ngồi lên xe và đẩy xe ra đường cách xa nhà mới nổ máy để tránh bị phát hiện, sau đó K điều khiển xe đi thẳng đến thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình với mục đích tìm chỗ bán xe lấy tiền. Khoảng 23 giờ cùng ngày, khi đi đến phường H, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình, K gặp anh Bùi Văn T (Sinh năm 1972, thường trú tại tổ 8, phường H, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình). K nói với anh T đang cần tiền nên muốn bán xe mô tô biển kiểm soát 19Z5-xxxx của mình cho anh T. Giấy tờ xe K để ở nhà, hôm sau sẽ mang lên cho anh T. Anh T đồng ý và mua chiếc xe mô tô trên với giá 3.500.000 đồng, trả trước cho K 3.000.000 đồng, hôm sau K mang giấy tờ xe lên sẽ trả nốt 500.000 đồng. K đồng ý và nhận 3.000.000 đồng từ anh T rồi tiêu sài cá nhân hết. Sau khi bị mất xe đã tự đi tìm nhưng không thấy. Ngày 06/8/2022, anh C trình báo sự việc bị kẻ gian trộm cắp xe mô tô đến Công an huyện Thanh Sơn. Qua xác minh, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Thanh Sơn phát hiện chiếc xe máy trên đang do anh T sử dụng. Từ lời khai của anh T, Cơ quan điều tra đã triệu tập Ngọc Văn K đến làm việc. Tại Cơ quan điều tra, Ngọc Văn K đã khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp xe mô tô biển kiểm soát 19Z5-xxxx của anh Ngọc Văn C như đã nêu trên.

Ngoài hành vi trộm cắp xe mô tô biển kiểm soát 19Z5-xxxx như đã nêu trên, quá trình điều tra, Ngọc Văn K còn tự khai nhận đã có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản khác, cụ thể:

Chiều ngày 08/7/2022, K đứng ở Bến xe khách Bình An thuộc thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình để tìm người đi nhờ về nhà tại xã M. Đến khoảng 16 giờ, K gặp anh Xa Văn T (Sinh năm 1995, thường trú tại xóm T, xã Tân Lập, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ) đang điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 19C1 - xxxxx nên xin đi nhờ về xã M. Anh T đồng ý và cho K đi nhờ xe. Trên đường đi, K nảy sinh ý định chiếm đoạt xe mô tô nên không nói tên thật mà giới thiệu với anh T mình tên là Học. Khi về đến nhà anh T tại xóm T, xã Tân Lập, K lấy lý do thời gian đã muộn, nhà K không có ai ở nhà và xin ở lại để hôm sau đi tìm việc làm. K ăn cơm và ngủ lại nhà anh T. Đến khoảng 15 giờ ngày hôm sau (09/7/2022) K ngủ trưa dậy thì thấy chỉ có anh Xa Văn T (Sinh năm 1992) là anh trai của anh T ở nhà. K nói dối với anh T là cho K mượn xe mô tô biển kiểm soát 19C1 - xxxxx để đi ăn bún thì được anh T đồng ý. Sau khi lấy được xe, K không đi ăn bún mà điều khiển xe thẳng lên thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình để tìm nơi tiêu thụ xe. Tại thành phố Hòa Bình, K đã bán chiếc xe mô tô này (K không nhớ cụ thể ngày nào) cho một người đàn ông mới gặp tên là Tân với giá 2.000.000 đồng và tiêu sài cá nhân hết. Cơ quan điều tra đã tiến hành định giá tài sản đối với xe mô tô biển kiểm soát 19Z5-xxxx. Tại Bản kết luận định giá tài sản số 58/KL-HĐĐGTS ngày 08/8/2022 của Hội đồng định giá tài sản - UBND huyện Thanh Sơn kết luận: xe mô tô biển kiểm soát 19Z5-xxxx thời điểm ngày 23/6/2022 trị giá 4.000.000 đồng. Định giá tài sản đối với xe mô tô biển kiểm soát 19C1 - xxxxx.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 59/KL-HĐĐGTS ngày 08/8/2022 của Hội đồng định giá tài sản - UBND huyện Thanh Sơn kết luận xe mô tô biển kiểm soát 19C-xxxxx thời điểm ngày 09/7/2022 trị giá 14.667.000 đồng.

* Tại bản cáo trạng số 60/CT-VKS ngày 02 tháng 11 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Sơn truy tố bị cáo Ngọc Văn K vê các tội “Trộm cắp tài sản” và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại Khoản 1 Điều 173 và Khoản 1, Điều 174 của Bộ luật hình sự Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Sơn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; Khoản 1 Điều 174; Điểm s khoản 1 điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, đề nghị:

Xử phạt bị cáo Ngọc Văn K từ 12 đến 18 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Từ 18 đến 24 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; Khoản 1 Điều 174; Điểm s, khoản 1 điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, phạt bị cáo: Từ 18 đến 24 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 55; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, đề nghị Tổng hợp hình phạt bị cáo K phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội từ 36 đến 42 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam bị cáo là ngày 10/8/2022 Miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Ngọc Văn K.

Về trách nhiệm dân sự: Xác nhận: Anh T, chị N đã nhận lại tài sản do cơ quan điều tra giao trả, không có yêu cầu gì. Anh T không đề nghị bị cáo K bồi thường. Người mua xe BKS 19C1- xxxxx, do bị cáo lừa đảo của anh T bán, bị cáo chỉ khai tên Tân. Ngoài lời khai của bị cáo không có tài liệu nào chứng minh về thông tin cá nhân và nơi cư trú của người tên Tân, nên HĐXX không xem xét về trách nhiệm dân sự.

Quan điểm người bào chữa cho bị cáo:Người bào chữa cho bị cáo đồng ý với Luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa về tội danh và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Về hình phạt: Người bào chữa đề nghị HĐXX xem xét đến nhân thân và điều kiện sinh sống của bị cáo để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Quan điểm Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bị hại: Nhất trí với luận tội của Kiểm Sát Viên về tội danh và về trách nhiệm dân sự. Đề nghị HĐXX tuyên mức hình phạt nghiêm minh đối với bị cáo nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm.

Sau khi người bào chữa cho bị cáo phát biểu quan điểm, bị cáo không bổ sung gì. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bị hại nhất trí với luận tội của Kiểm sát viên.

Tại lời nói sau cùng, bị cáo xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm hòa nhập cộng đồng, sửa chữa bản thân thành người lương thiện.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra, Điều tra viên. Viện Kiểm Sát, Kiểm sát viên trong qúa trình điều tra, truy tố và xét xử đã thực hiện đúng thẩm quyền; đúng trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và xét xử, bị cáo, người bào chữa cho bị cáo, người bị hại, không ai có khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Vì vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa, sau khi Kiểm sát viên trình bày luận tội, bị cáo hoàn toàn nhất trí, không tranh luận và bào chữa cho hành vi phạm tội của mình. Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà hôm nay là hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai người bị hại, người liên quan, phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luân : Ngày 23/6/2022, tại xóm B, xã M, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ, Ngọc Văn K đã có hành vi trộm cắp xe 01 xe mô tô biển kiểm soát 19Z5- xxxx trị giá 4.000.000 đồng của vợ chồng chị Đinh Thị N và anh Ngọc Văn C. Ngày 09/7/2022, tại xóm T, xã Tân Lập, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ, Ngọc Văn K có hành vi lừa đảo, chiếm đoạt xe mô tô biển kiểm soát 19C1-xxxxx trị giá 14.667.000 đồng của anh Xa Văn T, bán lấy tiền tiêu sài cá nhân hết. Ngọc Văn kiếm là người đã thành niên, đủ nhận thức để điều khiển hành vi của mình. Do ham chơi, lười lao động muốn có tiền tiêu xài, bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội, chiếm đọat tài sản của người khác nhằm vụ lợi cá nhân. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành các tội “Trộm cắp tài sản” và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1, Điều 173 và khoản 1, Điều 174 Bộ luật Hình sự. Như vậy Cáo trạng số 60/CT-VKS ngày 02 tháng 11 năm 2022, Viện Trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Sơn và luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3]. Xét tính chất vụ án là ít nghiêm trọng, nhưng hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Chỉ trong một thời gian ngắn bị cáo đã liên tiếp thực hiện 02 vụ án thuộc nhóm tội xâm phạm quyền sở hữu. Điều đó chứng tỏ bị cáo là đối tượng manh động, coi thường pháp luật và các qui tắc đạo đức xã hội. C xử phạt bị cáo thật nghiêm minh, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, mới có tác dụng giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa tội phạm.

[4] Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:Bị cáo được sinh ra và lớn lên trong gia đình cơ bản nhưng bị cáo có nhân thân xấu, không chịu làm ăn, lười lao động, chỉ muốn sống trên mồ hôi công sức của người khác. Trước lần phạm tội này bị cáo đã bị Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn xử phạt 09 tháng cải tạo không giam giữ tại Bản án số 21/2017/HSST ngày 11/5/2017. Ngày 23/02/2018, bị cáo đã chấp hành xong toàn bộ bản án, nhưng không lấy đó làm bản học cho bản thân mà lại tiếp tục thực hiện các hành vi phạm pháp. Ngày 23/5/2021 bị Công an xã M ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 01/QĐ-XPHC về hành vi “Trộm cắp tài sản” với mức phạt 1.500.000 đồng, bị cáo chưa thi hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính này. Ngày 23/02 và ngày 09/7/2022, bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác. Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo “thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải”. Sau khi phạm tội Trộm cắp chiếc xe mô tô của anh C, chị N bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo. Ngoài ra bị cáo còn tự khai ra hành vị lừa đảo chiếm đoạt chiếc xe mô tô của anh Xa Văn T ngày 09/7/2022 nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, r khoản 1 Điều 51 bộ luật hình sự năm 2015.

Từ những đánh giá, phân tích trên, HĐXX xét thấy: Bị cáo K là đối tượng nghiện ma túy, không có việc làm ổn định nhưng không tu chí làm ăn. Từ tháng 5/2021, đến khoảng tháng 7/2022, bị cáo đã 03 lần thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản cuả người khác vì mục đích vụ lợi cá nhân. Điều đó chứng tỏ bị cáo là đối thượng manh động, coi thường pháp luật. HĐXX xét thấy, cần phạt bị cáo mức hình phạt trên mức khởi điểm của khung hình phạt mà điều luật qui định và áp dụng khoản 1 Điều 55- BLHS, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả 02 tội theo mức hình phạt Kiểm Sát viên đề nghị tại phiên tòa mới có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm.

[5] Về hình phạt bổ xung: Qua trình điều tra và tại phiên tòa chứng minh, bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, bản thân bị cáo không có tài sản có giá trị nên miễn áp dụng hình phạt bổ xung theo qui định tại khoản 5 Điều 173 và khoản 5 Điều 174- BLHS cho bị cáo.

[6]. Vật chứng vụ án gồm: 01 xe mô tô biển kiểm soát 19C1 - xxxxx; 01 xe mô tô biển kiểm soát 19C1 - xxxxx. Cơ quan điều tra đã xác minh làm rõ: Chủ sở hữu hợp pháp xe mô tô biển kiểm soát 19C1 - xxxxx là chị Đinh Thị N- vợ anh Ngọc Văn C; Anh Xa Văn T là chủ sở hữu xe moto biển kiểm soát 19C1 - xxxxx. Ngày 06/10/2022, Cơ quan điều tra đã trả 02 xe mô tô trên cho chủ sở hữu hợp pháp là đúng pháp luật.

[7].Về trách nhiệm dân sự : Anh T, chị N sau khi nhận lại xe mô tô không có yêu cầu, đề nghị gì thêm. Ngày 09/8/2022, anh T tự nguyện giao nộp chiếc xe mô tô trên cho Cơ quan điều tra để phục vụ điều tra vụ án và không yêu cầu bị cáo K phải trả lại số tiền 3.000.000 đồng mua xe của K, nên không xem xét.

[8]. Các nội dung khác: Đối với anh Bùi Văn T, quá trình điều tra đã làm rõ, khi mua bán xe mô tô biển kiểm soát 19Z5-xxxx, bị cáo K nói đây là xe mô tô của bị cáo, anh T không biết đây là tài sản do K phạm tội mà có. Do vậy, hành vi của anh T không phạm tội “Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

Đối với người đàn ông tên Tân là người mua xe mô tô biển kiểm soát 19C1 - xxxxx, ngoài lời khai của bị cáo, không còn chứng cứ, tài liệu nào khác, Cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra, xác minh nhưng không làm rõ được thông tin người đàn ông như bị cáo khai nên không có cơ sở xử lý là phù hợp.

Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 173; Khoản 1 Điều 174; Điểm s, r khoản 1 Điều 51;

Điểm a khoản 1 Điều 55; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015:

1. Tuyên bố bị cáo Ngọc Văn K phạm tội “Trộm cắp tài sản” và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Xử phạt bị cáo Ngọc Văn K 12 (Mười hai) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và 24 (Hai mươi bốn) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả 02 tội là 36 (Ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 10/8/2022.

Miễn hình phạt bổ sung theo qui định tại khoản 5 Điều 173, khoản 5 Điều 174- BLHS cho bị cáo Ngoc Văn K.

Xác nhận: Các biên bản trao trả tài sản ngày 06/10/2022 của Cơ quan điều tra trả tài sản cho Anh T, chị N là hợp pháp.

Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

2. Án phí: Buộc bị cáo Ngọc Văn K phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.

"Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 - luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a,7b và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 luật thi hành án dân sự.".

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

12
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp, lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 57/2022/HS-ST

Số hiệu:57/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Sơn - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/11/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về