TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ GIA NGHĨA, TỈNH ĐẮK NÔNG
BẢN ÁN 81/2022/HS-ST NGÀY 29/09/2022 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 29 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 74/2022/TLST- HS ngày 25 tháng 8 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 80/2022/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 9 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 30/2022/QĐST-HS ngày 26 tháng 9 năm 2022, đối với các bị cáo:
1. Ngô Mậu Ngọc A, sinh năm 1994 tại tỉnh Đắk Lắk; hộ khẩu thường trú: Thôn 10, xã N, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông; chỗ ở hiện nay: Tổ dân phố 1, phường N, thành phố G, tỉnh Đắk Nông; nghề nghiệp: Quản lý quán ăn; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Mậu Ngọc V và con bà Võ Thị Minh A; có vợ là Lê Thị M (đã ly hôn) và 01 con; bị bắt tạm giữ, tạm giam tư ngày 05/5/2022; đang tạm giam; Có mặt.
2. Trần H, sinh năm 1996 tại tỉnh Đắk Lắk; hộ khẩu thường trú: Thôn Bình Thành 5, xã B, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk; chỗ ở hiện nay: Tổ dân phố 1, phường N, thành phố G, tỉnh Đắk Nông; nghề nghiệp: Nhân viên phục vụ quán bar; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần C và con bà Nguyễn Thị Q; chưa có vợ, con; nhân thân: Ngày 25/11/2020 bị Công an thành phố Gia Nghĩa ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính, hình thức phạt tiền 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, chấp hành xong ngày 26/11/2020 (đã hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính); bị bắt tạm giữ, tạm giam tư ngày 05/5/2022; đang tạm giam; Có mặt.
3. Trần Thị Thu H, sinh năm 2003 tại tỉnh Bình Thuận; hộ khẩu thường trú: Khu phố 6, thị trấn L, huyện T, tỉnh Bình Thuận; chỗ ở hiện nay: Tổ dân phố 1, phường N, thành phố G, tỉnh Đắk Nông; nghề nghiệp: Nhân viên phục vụ quán Karaoke; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Quốc K và con bà Nguyễn Thị Thu H; chưa có chồng, con; bị bắt tạm giữ, tạm giam tư ngày 05/5/2022; đang tạm giam; Có mặt.
- Người tham gia tố tụng khác:
Người làm chứng: Anh Trần Văn T, sinh năm 2002; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn H, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông; chỗ ở hiện nay: Tổ dân phố 1, phường N, thành phố G, tỉnh Đắk Nông; Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 01 giờ 15 phút ngày 05/5/2022, khi Trần H đang làm việc tại quán Bar Loge thuộc tổ dân phố 3, phường N thì nhặt được 01 túi nilon loại zipper, bên trong chứa ma túy loại Ketamine. H đem túi ma túy này về phòng trọ số 02 của Trần Thị Thu H1 tại tổ dân phố 1, phường N (do H1 thuê của anh Nguyễn Minh T) và kể cho H1 nghe việc này, H1 nói H để ma túy lại sử dụng thì H đồng ý. Sau đó, H1 đi đến quán nhậu New 36 trên đường 36m đón Ngô Mậu Ngọc A. trên đường về H1 có kể cho A nghe về việc H nhặt được ma túy thì A và H1 thống nhất về phòng trọ rủ H sử dụng.
Khi về đến dãy trọ, A và H gặp H1 cùng với Nguyễn Thị Bích H2 là bạn gái của H1 đang ở hành lang dãy trọ. A hỏi H: “Nhặt được đồ à? Ở đâu đưa mình xem”, do H đang ăn mì nên chưa đưa ma túy cho A. Lúc này, A rủ H2 vào phòng của H1 để sử dụng ma túy nhưng do chị H2 không đồng ý nên H2 từ chối. Sau khi ăn mì xong, H lấy ma túy (trước đó H để trên kệ cửa sổ khu vực bếp ăn) đưa cho A rồi đi về phòng trọ.
Sau khi đã có ma túy, A và H1 vào phòng trọ của H1, A lấy đĩa sứ, dùng tờ tiền 10.000 đồng cuộn cùng với đầu lọc điếu thuốc lá thành ống để hút ma túy, A lấy trong túi xách của H1 01 thẻ ATM và 01 loa nghe nhạc có sẵn tại phòng để sẵn trên nệm, còn H1 đi tắm. A qua phòng của Trần Văn T hỏi mượn đèn nháy, thì T đồng ý cho mượn.
Khoảng 02 giờ 00 phút cùng ngày, A gọi điện thoại rủ H sử dụng ma túy thì H đồng ý rồi H đến phòng trọ của H1. Tại đây, A lấy ma túy đổ ra đĩa sứ rồi dùng bật lửa hơ dưới đáy đĩa để nấu khoảng 1 đến 2 phút, sau đó dùng thẻ nhựa chia ma túy ra thành nhiều đường trên đĩa rồi cùng H1 và H thay nhau sử dụng bằng cách hít vào mũi. Khoảng 05 phút sau, T cầm đèn nháy qua đưa cho A, sau khi có đèn, A sử dụng điện thoại của mình kết nối với loa mở nhạc, A và H1 rủ T sử dụng ma túy cùng nhưng do bận công việc nên T chưa tham gia sử dụng. T đi ra ngoài khoảng 15 phút sau thì quay lại phòng của H và tham gia sử dụng ma túy cùng cả nhóm. Đến 05 giờ 30 phút ngày 05/5/2022 thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Gia Nghĩa bắt quả tang, thu giữ trên nệm 01 đĩa sứ, 01 tờ tiền 10.000 đồng, 01 thẻ ATM (tất cả bên trên có dính chất bột màu trắng) và các vật dụng dùng để sử dụng ma túy.
Tại Kết luận giám định số 45/KL-KTHS ngày 10/5/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Nông kết luận: Chất rắn màu trắng bám trên bề mặt đĩa sứ, tờ tiền polymer mệnh giá 10.000 đồng, thẻ ngân hàng Viettinbank TRAN THI THU H1, mảnh túi nilon kích thước (9,5x2,7)cm, được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Ketamine. Không đủ căn cứ để xác định khối lượng mẫu chất rắn.
Tại Kết luận giám định số 2630/KL-KTHS ngày 12/5/2022 của Phân viện khoa khọc kỹ thuật hình sự tại TP. Hồ Chí Minh của Bộ Công an kết luận: Mẫu chất lỏng màu vàng ghi “mẫu nước tiểu thu giữ của Trần H, Ngô Mậu Ngọc A, Trần Thị Thu H1, Trần Văn T được niêm phong gửi giám định có tìm thấy thành phần ma túy Ketamine.
Cáo trạng số: 67/CT-VKS-GN ngày 24 tháng 8 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông đã truy tố các bị cáo Ngô Mậu Ngọc A, Trần H và Trần Thị Thu H1 về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 255 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố Ngô Mậu Ngọc A, Trần H và Trần Thị Thu H1 phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Áp dụng khoản 1 Điều 255, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt các bị cáo Ngô Mậu Ngọc A và Trần H mỗi bị cáo từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù; xử phạt bị cáo Trần Thị Thu H1 từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.
Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46, Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:
Đối với 01 đĩa sứ, 01 thẻ ATM, 01 đèn nháy, 01 loa, 01 vỏ bao thuốc lá, 01 mảnh túi nilon và 01 bật lửa là dụng cụ dùng để sử dụng trái phép chất ma túy, nên tịch thu, tiêu hủy.
Đối với số tiền 10.000 đồng còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.
Đối với 01 điện thoại di động Iphone X của Ngô Mậu Ngọc A, 01 điện thoại di động Iphone X của Trần Thị Thu H1 và 01 điện thoại di động Iphone 7 của Trần H không liên quan trực tiếp đến hành vi phạm tội, nên trả lại cho An, H, H1 là chủ sở hữu hợp pháp.
Đề nghị chấp nhận ngày 22/6/2022 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Gia Nghĩa ra Quyết định xử lý tài sản, đồ vật, tài liệu số 62/CQĐT-ĐKTMT trả lại 01 điện thoại di động SamSung Galaxy A10S cho Trần Văn T.
Tại phiên tòa các bị cáo không trình bày lời bào chữa, tranh luận gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có cơ sở xác định:
Vào khoảng 02 giờ 00 phút ngày 05/5/2022, tại phòng trọ của Trần Thị Thu H1 thuộc tổ dân phố 1, phường N, thành phố G, tỉnh Đắk Nông, Ngô Mậu Ngọc A đã khởi xướng, rủ rê, chuẩn bị dụng cụ, Trần H là người cung cấp chất ma túy, Trần Thị Thu H1 là người chuẩn bị dụng cụ, cùng với A rủ rê Trần Văn T để cùng nhau tổ chức cho Trần Văn T sử dụng trái phép chất ma túy. Đến 05 giờ 30 phút cùng ngày thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Gia Nghĩa bắt quả tang, thu giữ các dụng cụ có bám dính chất ma túy loại Ketamine.
Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý chất ma túy. Các bị cáo nhận thức được hành vi của mình là phạm tội nhưng các bị cáo vẫn thực hiện. Vì vậy, có đủ căn cứ pháp lý để kết luận các bị cáo Ngô Mậu Ngọc A, Trần H và Trần Thị Thu H1 phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 255 của Bộ luật Hình sự.
Khoản 1 Điều 255 của Bộ luật Hình sự quy định:
“1. Người có tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”.
[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nghiêm trọng, đã làm ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương, là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tệ nạn xã hội và các tội phạm khác. Bị cáo Trần H là người có nhân thân xấu, ngày 25/11/2020 bị Công an thành phố Gia Nghĩa ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính, hình thức phạt tiền 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, chấp hành xong ngày 26/11/2020 (đã hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính). Do đó, cần áp dụng hình phạt tù với mức hình phạt đủ nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, vai trò tham gia, nhân thân của các bị cáo, cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục, ngăn ngừa các bị cáo phạm tội mới, đồng thời nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh phòng chống tội phạm.
[4] Xét vai trò của các bị cáo: Trong vụ án này, các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội mang tính chất đồng phạm giản đơn, có tính chất, mức độ, vai trò tham gia khác nhau, cần phân hóa khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo. Ngô Mậu Ngọc A là người khởi xướng, rủ rê, chuẩn bị dụng cụ sử dụng ma túy nên giữ vai trò đầu vụ, Trần H là người cung cấp chất ma túy, Trần Thị Thu H1 là người chuẩn bị dụng cụ, cùng với A rủ rê Trần Văn T để cùng nhau tổ chức cho Trần Văn T sử dụng trái phép chất ma túy. Do đó, cần xử phạt bị cáo A mức hình phạt cao hơn bị cáo H, xử phạt bị cáo H mức hình phạt cao hơn bị cáo H1.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, cần áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.
[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy, các bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập và tài sản riêng, do đó Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.
[7] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46, Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều của 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
Đối với 01 đĩa sứ, 01 thẻ ATM, 01 đèn nháy, 01 loa, 01 vỏ bao thuốc lá, 01 mảnh túi nilon và 01 bật lửa là dụng cụ dùng để sử dụng ma túy, nên tịch thu, tiêu hủy.
Đối với số tiền 10.000 đồng còn giá trị sử dụng nên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.
Đối với 01 điện thoại di động Iphone X của Ngô Mậu Ngọc A, điện thoại di động Iphone X của Trần Thị Thu H1, 01 điện thoại di động Iphone 7 của Trần H không liên quan trực tiếp đến hành vi phạm tội, nên trả lại cho An, H, H1 là chủ sở hữu hợp pháp.
Chấp nhận ngày 22/6/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Gia Nghĩa ra Quyết định xử lý tài sản, đồ vật, tài liệu số 62/CQĐT-ĐKTMT trả lại 01 điện thoại di động SamSung Galaxy A10S cho Trần Văn T là chủ sở hữu hợp pháp.
[8] Đối với Trần Văn T có hành vi cho Ngô Mậu Ngọc A mượn đèn nháy và sử dụng trái phép chất ma túy. Tuy nhiên, T không biết mục đích An mượn đèn nháy để tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Ngày 17/5/2022, Công an thành phố Gia Nghĩa đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính Trần Văn T theo quy định là phù hợp.
Đối với Nguyễn Minh T là người quản lý dãy trọ của Trần Thị Thu H1, anh T không biết các đối tượng tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy nên không đề cập xử lý.
[9] Xét các chứng cứ buộc tội, quan điểm đề nghị xử lý của đại diện Viện kiểm sát về mức hình phạt và xử lý vật chứng tại phiên tòa là có căn cứ, cần chấp nhận.
[10] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[11] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố các bị cáo Ngô Mậu Ngọc A, Trần H và Trần Thị Thu H1 phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 255, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Ngô Mậu Ngọc A 03 (ba) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ bắt tạm giữ, tạm giam ngày 05/5/2022.
Xử phạt bị cáo Trần H 02 (hai) năm 09 (chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ bắt tạm giữ, tạm giam ngày 05/5/2022.
Xử phạt bị cáo Trần Thị Thu H1 02 (hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ bắt tạm giữ, tạm giam ngày 05/5/2022.
2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46, Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:
Tịch thu, tiêu hủy 01 đĩa sứ, 01 thẻ ATM, 01 đèn nháy, 01 loa, 01 vỏ bao thuốc lá, 01 mảnh túi nilon và 01 bật lửa.
Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền 10.000 đồng đã được chuyển vào tài khoản số 3949.0.1036409.00000 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Gia Nghĩa ngày 26/8/2022 tại Kho bạc Nhà nước Đắk Nông.
Trả lại 01 điện thoại di động Iphone X cho Ngô Mậu Ngọc A, 01 điện thoại di động Iphone X cho Trần Thị Thu H1 và 01 điện thoại di động Iphone 7 cho Trần H.
Chấp nhận ngày 22/6/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Gia Nghĩa ra Quyết định xử lý tài sản, đồ vật, tài liệu số 62/CQĐT-ĐKTMT trả lại 01 điện thoại di động SamSung Galaxy A10S cho Trần Văn T.
(Các vật chứng có đặc điểm như trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 31/12/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Gia Nghĩa và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Gia Nghĩa).
3. Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Buộc các bị cáo Ngô Mậu Ngọc A, Trần H, Trần Thị Thu H mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 81/2022/HS-ST
Số hiệu: | 81/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Gia Nghĩa - Đăk Nông |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về