TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG, TỈNH THANH HOÁ
BẢN ÁN 17/2021/HS-ST NGÀY 26/03/2021 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
Ngày 26 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 09/2021/TLST-HS ngày 05 tháng 02 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2021/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 02 năm 2021, đối với các bị cáo:
1. Hoàng Việt H; sinh năm 1989; tại huyện H, tỉnh T; nơi cư trú: thôn Đ, xã Y, huyện H, tỉnh T; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn T và bà Mai Thị H; bị cáo có vợ là Nguyễn Thị Hải Y và có 02 con; tiền án, tiền sự: không.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 30/8/2020 đến ngày 08/9/2020 chuyển tạm giam cho đến nay, có mặt.
2. Nguyễn Đại T; sinh năm 1991; tại xã H (nay là xã Y), huyện H, tỉnh T; nơi cư trú: tiểu khu 4, thị trấn H, huyện H, tỉnh T; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Đ và bà Nguyễn Thị N; bị cáo có vợ là Đào Thị T và có 01 con.
Tiền án: Ngày 21/7/2020 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Hà Trung xử phạt 24 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 tháng về tội “gây rối trật tự công cộng” . Bị cáo chưa chấp hành xong bản án.
Tiền sự: không.
Nhân thân: Ngày 25/8/2016 bị cáo bị Công an huyện Hà Trung xử phạt vi phạm hành chính số tiền 2.500.000 đồng về hành vi xâm hại đến sức khỏe của người khác. Bị cáo chấp hành xong quyết định ngày 12/9/2016.
Tạm giữ, tạm giam: bị cáo bị tạm giữ từ ngày 30/8/2020 đến ngày 08/9/2020 chuyển tạm giam cho đến nay, có mặt.
3. Nguyễn Văn Đ, sinh năm 2000; tại xã H, huyện H, tỉnh T; nơi cư trú: thôn K, xã H, huyện H, tỉnh T; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 11/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H và bà Nguyễn Thị N; bị cáo chưa có vợ; tiền án, tiền sự: không;
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 30/8/2020 đến ngày 08/9/2020 chuyển tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Hà Trung cho đến nay, có mặt.
4. Nguyễn Minh N; sinh năm: 1990; tại xã H (nay là xã Y), huyện H, tỉnh T; nơi cư trú: thôn Đ, xã Y, huyện H, tỉnh T; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa:
9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Minh L và bà Phùng Thị H; bị cáo có vợ là Nguyễn Thúy H và có 02 con; tiền án, tiền sự: không.
Nhân thân: Ngày 17/10/2017 bị Công an huyện Hà Trung xử phạt vi phạm hành chính số tiền 2.500.000 đồng về hành vi xâm hại đến sức khỏe người khác. Bị cáo chấp hành xong quyết định ngày 22/9/2020.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 30/8/2020 đến ngày 08/9/2020 chuyển tạm giam cho đến nay, có mặt.
5. Mai Thượng H, sinh năm: 1998; tại huyện H, tỉnh T; nơi cư trú: thôn Đ, xã Y, huyện H, tỉnh T; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Mai Văn T và bà Trần Thị H; tiền án, tiền sự: không; bị cáo chưa có vợ.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 30/8/2020 đến ngày 08/9/2020 chuyển tạm giam cho đến nay, có mặt.
Người làm chứng:
1. Anh Nguyễn Duy T, sinh năm 1979; nơi cư trú: Số nhà 21, tiểu khu 5, thị trấn H, huyện H, tỉnh T, vắng mặt.
2. Ạnh Nguyễn Văn L, sinh năm 1993; nơi cư trú: thôn Đ, xã Y, huyện H, tỉnh T, vắng mặt.
3. Anh Thiều Tiến T, sinh năm 1991; nơi cư trú: thôn Đ, xã L, huyện H, tỉnh T, vắng mặt.
4. Anh Nguyễn Thanh B, sinh năm 1996; nơi cư trú: thôn Đ, xã Y, huyện H, tỉnh T, vắng mặt.
5. Anh Nguyễn Văn Q, sinh năm 1991; nơi cư trú: tiểu khu 4, thị trấn H, huyện H, tỉnh T, vắng mặt.
6. Chị Lê Thị T, sinh năm 1992; nơi cư trú: thôn 5, xã Q, thị xã B, tỉnh T, vắng mặt.
7. Chị Trịnh Thị C (tên gọi khác Võ Ngọc M), sinh năm 2002; nơi cư trú: Bản Ú, xã Huy T, huyện P, tỉnh S, vắng mặt.
8. Chị Quách Thị Hồng N, sinh ngày 21/7/2004; nơi cư trú: Xóm C, xã Ân N, huyện L, tỉnh H, vắng mặt.
9. Chị Trần Thanh Minh T, sinh ngày 30/9/2004; nơi cư trú: Số 90/01 ấp 1, xã P, huyện C, tỉnh L, vắng mặt.
10. Anh Lý Văn H, sinh năm 1991; nơi cư trú: thôn C, xã Y, huyện H, tỉnh T, vắng mặt.
11. Chị Lê Thị H (tên gọi khác Lê Thị L), sinh năm 2002; nơi cư trú: thôn 3, xã Th, huyện Th, tỉnh T, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào hồi 00 giờ 10 phút, ngày 30 tháng 8 năm 2020, tổ công tác Công an huyện Hà Trung phối hợp với công an xã Y, huyện H tiến hành kiểm tra quán cầm đồ 68 thuộc thôn Đ, xã Y, huyện H, tỉnh T, phát hiện Nguyễn Duy T, Mai Thượng H, Quách Thị Hồng N, Trần Thanh Minh T, Lê Thị H (tên gọi khác Lê Thị L), Lê Thị T, Nguyễn Minh N, Hoàng Việt H, Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Đại T, Nguyễn Văn L, Nguyễn Thanh B, Thiều Tiến T, Trịnh Thị C (tên gọi khác Võ Ngọc M) và Nguyễn Văn Q đang sử dụng trái phép chất ma túy.
Vật chứng thu giữ gồm: 01 (một) túi nilon màu trắng có viền đỏ, bên trong có chứa một viên nén hình trụ tròn màu hồng nhạt và chất bột màu hồng nhạt dạng cục vụn nghi là ma túy ở cạnh chỗ ngồi của Hoàng Việt H, được niêm phong ký hiệu M2;
01 (một) đĩa sứ màu trắng kích thước khoảng 23cm, bên trong đĩa có chứa chất bột dạng tinh thể màu trắng nghi là ma túy, được niêm phong ký hiệu M1; 01 (một) ống hút được cuộn bằng tờ tiền polime mệnh giá 100.000đ (Một trăm nghìn đồng), ở hai đầu được cố định bằng vỏ điếu thuốc lá; 01(một) thẻ nhựa cứng màu đen có dòng chữ VINGROUP kích thước 8x5cm để ở cửa sổ phòng ngủ; 01 (một) bật lửa ga; 01 (một) túi nilon màu trắng có viền đỏ kích thước 2x3cm; 01 (một) túi nilon màu trắng có viền đỏ kích thước 4x6cm. Ngoài ra, cơ quan điều tra còn thu giữ 04 chiếc điện thoại di động gồm: 01 điện thoại Iphone 8 plus màu bạc; 01 điện thoại Iphone X màu đen; 01 điện thoại Oppo A5 màu đen; 01 điện thoại Iphone Xs Max màu đen, tất cả đều đã qua sử dụng.
Xét nghiệm nước tiểu đối với Mai Thượng H, Trần Thanh Minh T, Thiều Tiến T, Nguyễn Văn Q, Nguyễn Duy T, Lê Thị T, Nguyễn Minh N, Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Đại T, Nguyễn Văn L, Nguyễn Thanh B, Hoàng Việt H đều dương tính với ma túy loại MET và MDMA.
Quách Thị Hồng N, Lê Thị H, Trịnh Thị C (tên gọi khác Võ Thị M) đều âm tính với ma túy.
Tại bản kết luận giám định số: 6035/C09-TT2 ngày 18/09/2020 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận:
- Chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu M1 gửi giám định là ma túy, loại:
Ketamine, khối lượng: 0,265 gam (không phẩy hai sáu năm gam);
- Viên nén màu hồng nhạt và chất bột màu hồng nhạt trong phong bì ký hiệu M2 gửi giám định là ma túy, loại: MDMA; tổng khối lượng: 0,712 gam (không phẩy bảy một hai gam).
Quá trình điều tra, các bị cáo khai nhận: Tối ngày 29 tháng 8 năm 2020, Hoàng Việt H điều khiển xe ôtô chở Nguyễn Minh N, Nguyễn Văn L, Nguyễn Đại T và Lý Văn H đi từ quán Karaoke Trường Sơn ở xã Hà Lai, huyện Hà Trung đến quán Cầm đồ 68 ở xã Yên Dương, huyện Hà Trung do anh Hoàng Văn D là chủ quán để chơi. Trên đường đi, H nảy sinh ý định sử dụng ma túy nên rủ N, T, L và H mua ma túy về quán Cầm đồ 68 sử dụng. T nói không mang tiền, N nói “Nếu không có tiền thì ai có bỏ ra chơi, hết bao nhiêu mai chia đều”, nghe N nói vậy thì H và T đồng ý còn L và H không có ý kiến gì. Khi cả nhóm về đến quán cầm đồ 68 thì xuống xe đi vào quán, Lý Văn H do có việc nên đi về trước. Lúc này trong quán có Mai Thượng H đang ngồi sửa điện thoại, T và H thống nhất mua 10 viên ma túy tổng hợp dạng thuốc lắc và 1 “chỉ” ketamine để sử dụng. Sau đó, T gọi điện thoại cho Nguyễn Văn Đ nhờ Đ đi mua ma túy, Đ đồng ý và báo giá tiền mua ma túy hết 6.500.000đ (Sáu triệu năm trăm nghìn đồng). Do không có tài khoản để nhận tiền mua ma túy từ T nên Đ gọi điện thoại cho Nguyễn Trọng H hỏi mượn H số tài khoản ngân hàng để chuyển tiền rồi nhờ H rút tiền mặt đưa cho Đ. H đồng ý, nhắn số tài khoản ngân hàng MB Bank (Ngân hàng Quân đội) chi nhánh Thanh Hóa, chủ tài khoản là Đinh Ngọc Châm A (bạn gái H) cho Đ. Đ nhắn tin cho T số tài khoản ngân hàng. Sau đó T bảo H chuyển tiền, H chuyển vào tài khoản Đinh Ngọc Châm A số tiền 6.500.000 (sáu triệu năm trăm nghìn đồng) rồi bảo N gọi điện cho Nguyễn Thanh B đến chơi. N gọi điện thoại cho B xong thì rủ H ra Thị xã Bỉm Sơn để đón Lê Thị T (bạn gái của N) đến quán Cầm đồ 68 chơi.
Sau khi H chuyển tiền vào tài khoản, Nguyễn Văn Đ đi xe taxi đến gần khu vực cầu Nguyệt Viên thành phố Thanh Hóa, gọi điện thoại bảo H mang tiền đến cho Đ. H đi xe môtô đến đưa cho Đ số tiền 6.500.000đ (sáu triệu năm trăm nghìn đồng) rồi đi về, Đ đi bộ xuống chân cầu gặp một người không biết tên, tuổi, địa chỉ hỏi mua 10 viên ma túy “thuốc lắc” và 1 “chỉ” ketamine với giá 6.500.000đ (sáu triệu năm trăm nghìn đồng), sau đó đi xe taxi về quán Cầm đồ 68. Khi về đến quán, Đ để 02 (hai) gói ma túy ở bàn uống nước, cầm tờ 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) đang để trên bàn ra trả tiền taxi hết 400.000đ (bốn trăm nghìn đồng) và nhận lại 100.000đ (một trăm nghìn đồng). Khi quay vào, Đ ngồi ở bàn uống nước dùng tờ tiền 100.000 đồng cuộn lại, lấy vỏ đầu lọc điếu thuốc lá cố định 2 đầu tờ tiền để làm ống hút sử dụng ma túy là Ketamine. Sau khi Đ cuộn xong ống hút, T, L, Đ và B đi vào phòng ngủ của quán ngồi. T cầm 02 (hai) gói ma túy bỏ vào đĩa sứ màu trắng đã có sẵn trong phòng, Đ cầm ống hút đã cuộn để lên đĩa sứ rồi ngồi nghe nhạc, B đi vào lấy một viên “thuốc lắc” bẻ một nửa sử dụng, còn một nửa B để lại trong đĩa sứ. Khoảng 10 phút sau H và N đi đón T về, H lấy nửa viên thuốc lắc đang để trong đĩa sử dụng, N lấy một viên “thuốc lắc” bẻ đôi đưa cho T rồi cả hai sử dụng. T, L mỗi người tự lấy một viên “thuốc lắc” rồi tự sử dụng. Sau khi sử dụng ma túy xong, H đi ra ngoài phòng khách bảo H “ngày mai nếu nhà không có việc gì thì vào chơi cùng” H đồng ý, đóng cửa quán rồi đi vào. Lúc này, H lấy một viên thuốc lắc bẻ đôi đưa cho Đ và H mỗi người nửa viên để cả hai sử dụng. Sau khi sử dụng ma túy (thuốc lắc) xong, H gọi điện thoại bảo Nguyễn Duy Tr cho bốn nhân viên đến để rót nước, Tr đồng ý. Khoảng 15 phút sau Tr đưa bốn nhân viên là Quách Thị Hồng N, Lê Thị H, Trịnh Thị C, Trần Thanh Minh T1 và Thiều Tiến T2 đến, Hải ra mở c. Khi vào phòng, Tr, T1, T2 mỗi người tự lấy nửa viên thuốc lắc để trong đĩa sứ rồi sử dụng. Sau đó Nguyễn Văn Q đến, Q tự lấy một viên thuốc lắc rồi sử dụng. Sau khi sử dụng thuốc lắc xong H đưa đĩa sứ cho H ra bếp ga của quán hơ nóng rồi đem lại đưa cho H. H đổ Ketamine lên đĩa lấy thẻ nhựa cứng miết cho Ketamine nhỏ và mịn, rồi gạt ra một đường kẻ thẳng đưa cho Tr sử dụng đầu tiên bằng hình thức hít, sau đó H kẻ một đường Ketamine tự sử dụng, rồi tiếp tục kẻ từng đường Ketamine lần lượt đưa cho T, N, T, Nguyễn Văn L, Đính, H, T, Q, B sử dụng bằng cách cầm tờ tiền được cuộn tròn và hít bằng mũi. Khi mọi người sử dụng xong H để đĩa Ketamine ra đệm rồi ngồi nhắm mắt nghe nhạc. N, T1, C thấy đĩa Ketamine đang để trên đệm nên cũng lấy đĩa Ketamine kẻ một đường rồi tự sử dụng. Đến khoảng 00 giờ 10 phút ngày 30/8/2020 khi cả nhóm đang ngồi nghe nhạc thì bị Công an đến kiểm tra, thu giữ, niêm phong tang vật và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.
Cáo trạng số 16/CT-VKSHT ngày 05 tháng 02 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa đã truy tố các bị cáo Hoàng Việt H, Nguyễn Đại T, Nguyễn Minh N, Nguyễn Văn Đ, Mai Thượng H về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm b, khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận hành vi như cáo trạng đã truy tố. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị áp dụng: điểm b, khoản 2, Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự đối với tất cả các bị cáo. Điểm t, khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Hoàng Việt H, Nguyễn Văn Đ; khoản 2, Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Hoàng Việt H, Nguyễn Minh N; điểm h, khoản 1, Điều 52, Khoản 2, Điều 56; khoản 5, Điều 65 Bộ luật hình sự đối với Nguyễn Đại T; Điều 54 Bộ luật hình sự đối với Hoàng Việt H. Xử phạt Nguyễn Đại T từ 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù đến 07 (bảy) năm 09 (chín) tháng tù, sau đó tổng hợp với hình phạt 24 tháng tù tại bản án hình sự sơ thẩm số 43/2020/HS-ST ngày 21/7/2020 của Tòa án nhân dân huyện Hà Trung;
Nguyễn Văn Đ từ 07 (bảy) năm đến 07 (bảy) năm 03 (ba) tháng tù; Hoàng Việt H từ 05 (năm) năm tù đến 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù; xử phạt các bị cáo Nguyễn Minh N từ 07 (bảy) năm 03 (ba) tháng đến 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù, Mai Thượng H từ 07 (bảy) năm đến 07 (bảy) năm 03 (ba) tháng tù.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Quá trình điều tra, truy tố các bị cáo không có khiếu nại về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng. Các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng với trình tự, thủ tục, thẩm quyền và hợp pháp theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
[2]. Lời khai của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của các bị cáo ở giai đoạn điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với vật chứng thu giữ được và bản kết luận giám định, đủ cơ sở khẳng định: Từ tối ngày 29/8/2020 đến 00 giờ 10 phút, ngày 30 tháng 8 năm 2020, Hoàng Việt H, Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Đại T, Nguyễn Minh N, Mai Thượng H đã tổ chức cho Nguyễn Duy Tr, Nguyễn Văn L, Nguyễn Thanh B, Thiều Tiến T2, Nguyễn Văn Q, Lê Thị T, Trịnh Thị C, Quách Thị Hồng N, Trần Thanh Minh T1 sử dụng trái phép chất ma túy tại quán Cầm đồ 68 thuộc Thôn Đoài Thôn, xã Yên Dương, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung truy tố các bị cáo Hoàng Việt H, Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Đại T, Nguyễn Minh N, Mai Thượng H về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm b, khoản 2, Điều 255 của Bộ luật Hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3]. Xét tính chất, vai trò và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo trong vụ án thấy rằng:
Đây là vụ án mang tính đồng phạm giản đơn, không có sự phân công cụ thể, trong đó Hoàng Việt H là người khởi xướng, bỏ tiền để mua ma túy đồng thời là người trực tiếp đưa ma túy cho một số đối tượng khác sử dụng. Nguyễn Văn Đ là người thực hành tích cực, trực tiếp đi mua ma túy, chuẩn bị công cụ để sử dụng ma túy. Nguyễn Đại T là người gọi điện cho Đ, nhờ Đ đi mua ma túy về sử dụng. Nguyễn Minh N là người gọi một số đối tượng đến sử dụng ma túy nên giữ vai trò chỉ sau Đ và T, Mai Thượng H là người hỗ trợ H các thao tác trong việc tổ chức sử dụng ma túy nên giữ vai trò thấp nhất trong vụ án.
Hành vi của các bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền của Nhà nước về kiểm soát, quản lý, sử dụng các chất ma tuý, làm ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của con người và trật tự xã hội. Vì vậy, phải cách ly các bị cáo khỏi đời sống xã hội trong một thời gian để cải tạo, giáo dục các bị cáo, đồng thời để răn đe, phòng ngừa chung.
Nguyễn Đại T là người trực tiếp giao dịch với Đ nhờ mua ma túy và cũng là đối tượng đã bị kết án, ngày 21/7/2020 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Hà Trung xử phạt 24 tháng tù cho hưởng án treo thời gian thử thách 48 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Trong thời gian thử thách, bị cáo lại tiếp tục phạm tội do cố ý, lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm quy định tại điểm h, khoản 1, Điều 52 Bộ luật hình sự. Ngoài buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án này, còn buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Ngoài ra, ngày 25/8/2016 bị cáo bị Công an huyện Hà Trung xử phạt vi phạm hành chính số tiền 2.500.000 đồng về hành vi xâm hại đến sức khỏe của người khác, mặc dù bị cáo đã chấp hành xong ngày 12/9/2016 nhưng điều đó cho thấy bị cáo có nhân thân xấu, vì vậy bị cáo phải chịu hình phạt cao nhất trong vụ án. Thời gian tạm giữ, tạm giam của bản án trước (từ ngày 23/5/2019 đến ngày 14/6/2019) và thời gian tạm giữ, tạm giam của lần phạm tội này được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt chính của bị cáo. Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo theo điểm s, khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự.
Nguyễn Minh N là đối tượng trực tiếp gọi cho một số đối tượng đến sử dụng trái phép ma túy và đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính, ngày 17/10/2017 bị Công an huyện Hà Trung xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xâm hại đến sức khỏe người khác, mặc dù bị cáo đã chấp hành xong quyết định ngày 22/9/2020 nhưng điều đó cho thấy bị cáo có nhân thân xấu. Vì vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự chỉ sau T. Bị cáo cũng được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo theo điểm s, khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự, ngoài ra bị cáo còn có thời gian tham gia quân ngũ, hoàn thành nghĩa vụ quân sự, được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2, Điều 51 Bộ luật hình sự.
Bị cáo Nguyễn Văn Đ là người thực hành tích cực, trực tiếp đi mua ma túy, chuẩn bị công cụ để sử dụng ma túy. Tuy nhiên, sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, được cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Thạch Thành xác nhận đã tích cực hợp tác với cơ quan điều tra Công an huyện Thạch Thành trong việc phát hiện tội phạm, đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s, t, khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy, cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất của khung hình phạt là phù hợp.
Mai Thượng H tham gia với vai trò hỗ trợ, chuẩn bị công cụ để các đối tượng sử dụng ma túy. Sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s, khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy, áp dụng mức thấp nhất của khung hình phạt đối với bị cáo là phù hợp.
Bị cáo Hoàng Việt H giữ vai trò là người khởi xướng, bỏ tiền để mua ma túy đồng thời là người trực tiếp đưa ma túy cho một số đối tượng khác sử dụng. Tuy nhiên, sau khi phạm tội, bị cáo đã thành khẩn khai báo, được đồn biên phòng cửa khẩu Thanh Thủy, Bộ đội biên phòng tỉnh Nghệ An xác nhận đã tích cực hợp tác với đồn biên phòng cửa khẩu Thanh Thủy, Bộ đội biên phòng tỉnh Nghệ An trong việc phát hiện tội phạm vụ án vận chuyển trái phép chất ma túy, thu giữ 01kg ma túy đá, 01 xe máy, đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s, t, khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo được chính quyền địa phương xác nhận đang trực tiếp nuôi dưỡng mẹ liệt sĩ; trong thời gian sinh sống tại địa phương luôn chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, tích cực trong việc ủng hộ phòng chống dịch covid; luôn đi đầu trong phong trào giữ gìn an ninh trật tự và phòng chống tội phạm ở địa phương, đây được coi là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2, Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, đã thật sự ăn năn hối cải, do đó áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự cho bị cáo được hưởng mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là phù hợp.
Trong vụ án này Nguyễn Văn L, Nguyễn Duy Tr, Nguyễn Thanh B, Thiều Tiến T2, Nguyễn Văn Q, Lê Thị T, Trịnh Thị C, Quách Thị Hồng N, Trần Thanh Minh T1 chỉ sử dụng ma túy, không tham gia vào việc tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy nên Công an huyện Hà Trung đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là đúng quy định. Lê Thị H không sử dụng ma túy, không đồng phạm về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy nên Công an huyện Hà Trung không xử lý đối với H là phù hợp với quy định của pháp luật. Anh Hoàng Văn D (chủ quán cầm đồ 68) không biết H và các bị cáo khác tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy tại quán nên không có căn cứ để xử lý đối với anh D. Đối với người đàn ông bán ma túy cho Nguyễn Văn Đ, do Đ không biết tên, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ để xử lý.
[4]. Về vật chứng: Khối lượng ma túy cơ quan điều tra thu giữ được còn lại sau giám định là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu tiêu huỷ; 01 đĩa sứ, 01 thẻ nhựa màu đen, 01 bật lửa ga là công cụ phạm tội, do không còn giá trị nên tịch thu tiêu hủy;
01 ống hút bằng tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng, 04 chiếc điện thoại di động, các bị cáo dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội nên phải tịch thu nộp ngân sách nhà nước.
[5]. Hình phạt bổ sung: Các bị cáo đều là lao động tự do, không có thu nhập ổn định. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.
[6]. Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b, khoản 2, Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự đối với tất cả các bị cáo. Điểm t, khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Hoàng Việt H, Nguyễn Văn Đ; khoản 2, Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Hoàng Việt H, Nguyễn Minh N; điểm h, khoản 1, Điều 52, Khoản 2, Điều 56; khoản 5, Điều 65 Bộ luật hình sự đối với Nguyễn Đại T; Điều 54 Bộ luật hình sự đối với Hoàng Việt H.
1. Về tội danh: các bị cáo Hoàng Việt H, Nguyễn Đại T, Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Minh N, Mai Thượng H phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”.
2. Về hình phạt:
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Đại T 7 (bảy) năm 6 (sáu) tháng tù. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt 24 (hai mươi bốn) tháng tù tại bản án hình sự sơ thẩm số 43/2020/HS-ST ngày 21/7/2020 của Tòa án nhân dân huyện Hà Trung. Tổng hợp hình phạt chung của hai bản án là 9 (chín) năm 6 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ là ngày 30/8/2020 và được trừ thời gian bị cáo đã bị tạm giữ, tạm giam của bản án trước (từ ngày 23/5/2019 đến ngày 14/6/2019).
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh N 7 (bảy) năm 3 (ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ là ngày 30/8/2020.
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ 7 (bảy) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ là ngày 30/8/2020.
- Xử phạt bị cáo Mai Thượng H 7 (bảy) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ là ngày 30/8/2020.
- Xử phạt bị cáo Hoàng Việt H 5 (năm) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ là ngày 30/8/2020.
3. Về xử lý vật chứng: căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự.
Tịch thu tiêu huỷ: toàn bộ số ma tuý còn lại sau giám định, được đựng trong phong bì do Viện khoa học hình sự Bộ Công an phát hành được dán kín, niêm phong;
01 (một) đĩa sứ màu trắng đường kính 23cm; 02 túi nilon màu trắng; 01 (một) thẻ nhựa cứng màu đen có dòng chữ VINGROUP kích thước 2x3cm; 01 (một) bật lửa ga.
Tịch thu nộp ngân sách nhà nước: 01 ống hút bằng tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng; 04 chiếc điện thoại di động.
Tất cả vật chứng tịch thu tiêu hủy và vật chứng tịch thu nộp ngân sách Nhà nước đều được đựng trong phong bì niêm phong (đặc điểm của phong bì niêm phong theo biên bản giao, nhận vật chứng giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hà Trung và Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Hà Trung ngày 23/02/2021).
4. Về án phí: căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng Hình sự; Điều 6; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Buộc các bị cáo Hoàng Việt H, Nguyễn Đại T, Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Minh Ng, Mai Thượng H, mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự
Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý số 17/2021/HS-ST
Số hiệu: | 17/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/03/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về